California là nơi sinh sống của hơn 10% người Mỹ và là nhân tố trung tâm trong cấu trúc văn hóa Mỹ. Mặc dù có hơn hai phần ba số người Mỹ sống tại bang nơi mà họ sinh ra nhưng chưa đến một nửa số người dân sinh ra ở California sống tại bang này. Ngoài ra, từ năm 1850, ở mỗi thập kỷ California là một điểm dừng quan trọng trong các cuộc di dân trong phạm vi nước Mỹ.

Xét theo hầu hết các tiêu chí dùng để định nghĩa vùng thì California (bản đồ 13) không phải là một đơn vị duy nhất. Dân số nông nghiệp ở Thung lũng Imperial ở phía đông nam hoàn toàn khác với dân số thành thị ở San Francisco. Tính chất đặc biệt bằng phẳng của Thung lũng San Joaquin trái ngược hẳn với địa hình gồ ghề lởm chởm của dãy núi Sierra Nevada. ở đây có nhiều sa mạc rộng lớn ở phía nam nội địa và những sườn thoải có rừng che phủ dọc theo bờ biển bắc.

Môi trường tự nhiên phong phú và đa dạng của California đóng vai trò quan trọng trong việc định cư ở bang này. Hầu hết người dân bang này hiện sống tập trung vào một phần nhỏ của lãnh thổ bang bị hạn hẹp bởi sự mở rộng địa hình lởm chởm và tình trạng thiếu nước trên diện rộng. Trên thực tế, “thánh địa” này thể hiện sự tôn thờ của người Mỹ đối với cuộc sống ngoài trời vượt xa tất cả các bang khác về mức đô thị hoá. Có một vài nhân tố giúp giải thích điều này, nhưng những khía cạnh hạn chế của môi trường thiên nhiên chắc chắn rất quan trọng.

us a flag on pole during daytime

Môi trường thiên nhiên

Bờ biển California được bao bọc bởi những dãy núi dài, cùng chạy theo hướng tây bắc. Chúng được gọi chung là Dải Bờ Biển (Coast Ranges). Đa số những dãy núi này không thật cao, những đỉnh cao nhất cũng chỉ vào khoảng từ 1000 đến 1600 mét. Chúng gấp khúc và rạn nứt do áp lực của sự tiếp xúc với mặt đá về phía Tây. Những vùng bị nứt do động đất ở California cũng chạy cùng hướng tây bắc như Coast Ranges này.

Những trận động đất nhỏ thường xảy ra trên những vùng rộng lớn của khu vực này, đặc biệt từ Vịnh San Francisco về phía nam tới gần Bakersfield và từ khu vực Los Angeles về phía đông nam qua Thung lũng Imperial.

Cách xa Coast Ranges về phía đông là Thung lũng Trung tâm. Thung lũng này cực kỳ bằng phẳng, chiều dài từ phía bắc đến phía nam là 680 km và chiều rộng là 150 km. Thung lũng Trung tâm có nguồn gốc là do sự mở rộng mạnh mẽ của Thái Bình Dương, với cửa ngõ ra biển duy nhất là Vịnh San Francisco. Đây là nơi tiếp nhận những chất liệu bị xói mòn từ sườn phía tây của dải Sierra Nevada vùng biển trước kia bị lấp đầy bằng đá trầm tích. Kết quả tạo ra là một vùng đất nổi thấp, giàu tiềm năng để phát triển một nền nông nghiệp quy mô lớn.

Về phía đông của Thung lũng Trung tâm, dãy núi Sierra Nevada nhô dần lên và nó đã bị xói mòn nghiêm trọng. Ngược lại, mặt phía đông của dãy núi này lại cho thấy sự thay đổi độ cao đầy ấn tượng. Đây là những ngọn núi bị nứt thành tảng, những khối đá lớn vươn cao như một chỉnh thể, và mặt đông của dãy núi này được nâng lên cao hơn nhiều so với mặt tây. Do đạt tới những độ cao lớn và có rất ít đèo nên dãy núi Sierra Nevada đã tỏ ra là một rào chắn quan trọng đối với việc đi lại giữa miền Trung và miền Bắc California và những khu vực phía đông.

Hai vùng đất khác, ít mang đặc trưng của California hơn, hoàn tất địa hình của bang này. ở phía bắc, mô hình núi – thung lũng – núi bị phá vỡ và nhìn chung đại bộ phận tuyến phía bắc là núi. Phần cao nguyên trung tâm mà trực tiếp là phía bắc Thung lũng Trung tâm có hai đỉnh núi lửa lớn là đỉnh Lassen và đỉnh Shasta. Về phía đông nam của Thung lũng Trung tâm, Lòng Chảo Lớn trong nội địa chứa đựng những núi thấp nằm xen kẽ với những vùng đất lớn khá bằng phẳng.

Những khác biệt về khí hậu và thực vật của California cũng lớn gần như mức độ đa dạng về địa hình của nó. Yếu tố quan trọng nhất quyết định lượng nước mưa là sự di chuyển thường xuyên của luồng không khí nặng trĩu hơi nước từ đông bắc Thái Bình Dương về phía đông nam. Xa về phía nam ở đó những trận bão phát sinh từ khối không khí bị chịu ảnh hưởng đáng kể của một trung tâm áp cao ổn định ở ngoài khơi phía tây của Mexico. Một trung tâm ổn định như thế đã ngăn chặn sự di chuyển về phía nam của các cơn bão hình thành từ khối không khí biển này, và đẩy cái hệ thống tạo hơi nước đó về phía đông vào bờ. Vùng áp cao gây cản trở này có xu hướng trôi dạt về phía bắc trong mùa hè và về phía nam trong mùa đông.

Những khối không khí này là nguyên nhân tạo nên một sự giảm dần từ bắc xuống nam về lượng mưa trung bình hàng năm ở California; phía bắc có độ ẩm trung bình cao hơn phía nam. Thêm vào đó, mùa hè có đặc trưng là khô hơn mùa đông, đặc biệt là ở phía nam. Vào mùa hè, miền nam California trải qua một thời gian dài không có mưa. Hậu quả là, các sườn núi có nhiều cây gỗ trở nên khô, dễ cháy. Các vụ cháy rừng – một vấn đề môi trường nữa – thường xuyên tái diễn, hay xảy ra nhất vào cuối mùa hè và mùa thu, cho đến khi kết thúc mùa khô kéo dài.

Vùng bờ biển phía bắc của San Francisco có nhiệt độ tương đối ít thay đổi theo mùa, lượng mưa quanh năm dồi dào, và bầu trời luôn u ám, đầy mây.

Thung lũng Trung tâm khô hơn nhiều so với các vùng sát bờ biển của bang. Lượng mưa hàng năm ở đây thường chưa bằng một nửa lượng mưa tại khu vực cùng vĩ độ ở sườn tây của Coast Ranges. Chẳng hạn như Mendocino ở bờ biển phía bắc của San Francisco có lượng mưa trung bình hàng năm là 92cm, trong khi đó ở thành phố Yuba ngay ở phía đông của Mendocino thuộc trung tâm của Thung lũng Sacramento có lượng mưa trung bình hàng năm chỉ là 52cm. Về phía nam, vùng San Luis Obispo ven biển có lượng mưa trung bình bằng 52cm, trong khi Bakersfield trong nội địa chỉ là 15cm hàng năm.

Những khác biệt về nhiệt độ giữa vùng ven biển và đất liền có cùng vĩ độ cũng gây ấn tượng không kém. Nhiệt độ trung bình vào tháng bảy của San Luis Obispo là 180C, còn nhiệt độ trung bình ở Bakersfield cao hơn gần 120C. Nhiệt độ cao ban ngày vào cuối mùa hè ở San Francisco thường dưới 270C, trong khi đó vùng Stockton, cách 100 km về phía đông, bị đốt nóng tới trên 380C. Sự khác biệt này phần nhiều là kết quả của hiệu ứng điều hòa của dòng biển lạnh ở ngoài khơi và trạng thái thường xuyên có sương mù vào buổi chiều và tối mùa hè dọc theo ven biển.

Phần nội địa của Coast Ranges và Sierra Nevada thuộc đông nam California là một khu vực rộng lớn với môi trường thảo nguyên hay sa mạc khô ráo. Trong suốt những tháng cuối mùa hè, những cơn gió khô thỉnh thoảng lại tràn sang phía tây đến ven biển, mang theo độ ẩm cực thấp và nhiệt độ có thể đến 400C. Vùng đất liền phía đông nam của California trung bình hàng năm nhận được lượng mưa chưa tới 20cm.

Các hình mẫu thực vật tương ứng sát với những khác biệt về khí hậu của bang. Gần như toàn bộ vùng đất thấp nam California và vùng phía đông của dãy núi Sierra Nevada-Cascade được bao phủ bởi những cây rau thơm, bụi creosote, chaparral, và những loại thực vật sa mạc và bán sa mạc đặc trưng khác. Thung lũng Trung tâm và các thung lũng ở phía nam Coast Ranges ít nhiều đỡ khô hạn hơn so với các vùng sâu hơn về phía nam, nơi đó là vùng đồng cỏ thảo nguyên. Bao bọc quanh Thung lũng Trung tâm và men theo bờ biển từ Santa Barbara tới Vịnh Monterey là những cánh rừng mở hỗn hợp sồi và thông. Vùng ven biển từ vịnh Monterey về phía bắc là nơi sinh sống của những cây gỗ màu đỏ, những cây lớn nhất trên thế giới. Tại những độ cao lớn hơn của Coast Ranges và Sierra Nevada là những cánh rừng hỗn hợp pine và fir trên cao của Sierra Nevada là những cánh rừng, cây độc và subalpine, trong đó có cả những cây sequoia.

Sự tăng trưởng của California

Có lẽ điểm bất lợi nhất của California, ít nhất cho đến gần đây, là vị trí của nó nằm ở ngoại vi miền viễn tây của Hoa Kỳ, cách những khu vực quan trọng nhất về cung và cầu của kinh tế của đất nước khoảng 3500km. Sự biệt lập tương đối này càng tai hại hơn do điều kiện tự nhiên của phần lớn vùng đất nằm giữa Sierra Nevada với miền Nam và Midwest, một vùng rộng lớn của đất nước khiến cho chi phí vận chuyển lại tăng thêm một phần.

Hơn bất kỳ một yếu tố nào khác, khí hậu đóng vai trò then chốt giúp California vượt qua những bất lợi về vị trí địa lý của mình. Khí hậu là yếu tố quan trọng đối với lịch sử định cư cũng như sự phát triển nông nghiệp của bang này.

Những người Mỹ bản địa ở California, trước khi người châu Âu thâm nhập nơi đây, sống bằng nghề săn bắt và hái lượm. Về thức ăn, họ dựa vào nguồn thực phẩm biển hoặc các loại ngũ cốc, hạt thu lượm được trong thiên nhiên và xay thành bột. ở đây có rất ít bộ lạc lớn. Thay vào đó đa số các nhóm được tổ chức thành các nhóm nhỏ có lẽ khoảng từ 10 đến 20 gia đình. Vào thời điểm lần đầu tiên người châu Âu đặt chân lên đất Mỹ, có lẽ cứ 10 người Mỹ bản địa thì có 1 người sống ở nơi mà sau đó trở thành bang California.

Mặc dù các nhà thám hiểm Tây Ban Nha đã dạo quanh phần ngoài rìa của California vào giữa những năm 1500 và tuyên bố nó là một phần đất Bắc Mỹ rộng lớn do Tây Ban Nha kiểm soát, nhưng về cơ bản thì họ đã không chú ý đến mảnh đất này trong 2 thế kỷ sau đó. Cho mãi đến khi nảy sinh những mối lo ngại về sự bành trướng của Anh và Nga ở vùng đất phía tây Bắc Mỹ vào cuối thế kỷ thứ 18 thì các nhà truyền giáo Tây Ban Nha mới thiết lập một đường dây truyền giáo từ San Diego tới Sonoma gần San Francisco. Những khu định cư của các nhà truyền giáo này được xen kẽ bởi những pháo đài và một vài thị trấn. Suốt vài thập niên sau đó, các chính phủ Mexico và Tây Ban Nha đã cấp quyền sử dụng những mảnh đất lớn cho người nhập cư. Tuy nhiên, những khu vực này vẫn nằm ở ngoại vi; các thị xã đều nhỏ và đổ nát. Da và mỡ động vật là sản phẩm xuất khẩu quan trọng nhất của vùng này.

Tiếp theo việc Hoa Kỳ tịch thu California vào năm 1846, sự phát hiện ra vàng rất lớn tại chân núi thuộc trung tâm Sierra Nevada vào năm 1848, đã đem lại sự thay đổi quan trọng đầu tiên cho những cơ may định cư ở khu vực này. Chỉ trong vòng một năm đã có 40.000 người đến với các mỏ vàng bằng đường biển, băng qua cảng San Francisco. Có lẽ cũng còn nhiều người đến bằng đường bộ nữa. Năm 1850, California trở thành một bang của Mỹ. Thời kỳ điên rồ của việc săn lùng vàng chỉ kéo dài trong một vài năm, nhưng sự kiện này đã phá vỡ thế cô lập của California với phần còn lại của đất nước.

Miền Nam California – trung tâm kiểm soát của Tây Ban Nha – đã không tham gia vào hiện tượng gia tăng dân số ở giai đoạn đầu này, nhưng sự hoàn tất tuyến đường sắt đi về phía tây vào những năm 1880 đã chấm dứt sự tồn tại yên tĩnh của khu vực. Trong một nỗ lực để tạo ra nhu cầu về những phương tiện đi lại của mình, những tuyến đường sắt đã quảng cáo rộng rãi tới những người định cư, hỗ trợ những người mới đến trong việc tìm kiếm nhà ở và việc làm, giảm chi phí đi lại. Trong suốt thời kỳ bùng nổ đất đai lần đầu tiên ở miền Nam California, từ năm 1881 đến 1887, dân số của Los Angeles đã tăng lên từ 10.000 người tới 70.000 người.

Trong suốt thời gian này và những năm tiếp theo, một số lớn cây trồng cũng đã được đưa vào miền Nam California trong đó có cam sành, chanh, trái bơ, cam Valencia và quả chà là. Các thị trường phía đông có nhu cầu lớn về các sản phẩm này, và vào thời đó ở Hoa Kỳ chỉ có miền nam California mới có thể cung cấp với khối lượng lớn. Nông nghiệp vẫn là ngành xương sống của nền kinh tế miền nam California cho đến đầu thế kỷ thứ 20.

Nông nghiệp ngày nay

California, theo một số chỉ tiêu, là bang được đô thị hóa mạnh nhất của nước Mỹ, cũng đồng thời là bang nông nghiệp lớn nhất xét về phương diện tổng thu nhập từ lĩnh vực này. Vào năm 1988, giá trị thị trường các sản phẩm nông nghiệp được bán tại California là 16,6 tỷ đô-la. Mặc dù được tiêu biểu bởi nhiều đặc sản nhưng trên thực tế, nền nông nghiệp California rất phong phú nhờ tính đa dạng của các vùng khí hậu và nhu cầu thị trường của số dân lớn trong khu vực.

Nhiều cây đặc sản rất nhạy cảm với sự thay đổi nhiệt độ và loại đất. Các thung lũng ở Coastal Range hướng về phía Thái Bình Dương thường có nhiều mây, nhiệt độ khá ôn hoà. Các loại thực như cây artiso, rau diếp, cây cải xanh, cải bruxen tăng trưởng rất tốt dưới những điều kiện như vậy. Các loại nho mà người ta thường dùng để sản xuất các loại rượu Mỹ tốt nhất thích nghi với khí hậu nắng dịu như ở vùng đất liền thung lũng Coastal Range trong đất liền xung quanh San Francisco. Nho ở Thung lũng San Joaquin và phía nam California – nơi mà vào mùa hè nhiệt độ cao được dùng làm nho khô, hoặc rượu nho. Hầu hết hoa được trồng để lấy hạt giống ở Hoa Kỳ đều được trồng ở Thung lũng Lompoc của Santa Barbara. Các loại cam sành và chanh được trồng duy nhất ở dọc ven biển và vùng đất nội địa quanh Lòng chảo Los Angeles.

Tầm quan trọng của các sản phẩm nông nghiệp đặc biệt ở California đã giải thích tại sao những người nông dân ở bang này đã thành công trong quá trình thâm nhập vào các thị trường Viễn Đông. Những sản phẩm này có thể được trồng hay ít nhất được trồng ở quy mô lớn chỉ ở một vài vùng của nước Mỹ. Và hầu hết các vụ mùa này kéo dài. Do đó, không có sự cạnh tranh từ các nhà sản xuất địa phương ở những nơi có nhu cầu về sản phẩm. Miền Nam California, mà đặc biệt là Thung lũng Imperial, có thể cung cấp các sản phẩm rau xanh trong suốt mùa đông, khi mà hầu như không có sự cạnh tranh và giá bán ở mức cao nhất.

Mặc dù California sản xuất nhiều sản phẩm nông nghiệp nhưng ở nhiều vùng địa phương có xu hướng chuyên môn hóa một hoặc một số sản phẩm và một vài trong số các sản phẩm đặc biệt này của California được một số lượng nhỏ những người nông dân trồng. ở Thung lũng San Joaquin một số chủ sở hữu đất có xu hướng mở rộng diện tích trồng ra hàng nghìn hecta.

Nông nghiệp ở California đã tạo ra nhu cầu to lớn về nước trên khắp bang này. Hầu hết các sản phẩm của bang như bông, mía, lúa, gạo, rau, hoa, quả, hạt đều được trồng ở những cánh đồng được tưới nước. California có diện tích đất trồng được tưới nhiều hơn bất kỳ vùng nào ở Hoa Kỳ, khoảng 3,5 triệu hecta, và người nông dân của bang này sử dụng hơn một phần tư tổng lượng nước tưới ở Mỹ. Tính trung bình, đất được tưới ở bang này sẽ tiếp nhận 1 mét nước “nhân tạo” hàng năm.

Bộ sưu tập cây trồng ở một địa phương tuỳ thuộc vào khả năng sẵn có của nguồn nước cũng như đất, hệ thống thoát nước, địa hình và mùa sinh trưởng. Những tiềm năng về tưới tiêu thường giữ vai trò quan trọng. Dạo quanh Thung lũng San Joaquin, người ta thấy những đàn gia súc đang gặm cỏ ở chân núi Sierra, việc canh tác trong điều kiện khô đối với ngũ cốc ở những vùng đất thấp, bằng phẳng hơn nhưng vẫn quá cao cho việc tưới tiêu, những cây hoa quả được tưới nước, và cây nho trên những chất đất được thoát nước tốt hơn gần đáy thung lũng; những cây trồng trên cánh đồng được tưới nước như bông, rau trồng trên mặt đáy bằng phẳng của thung lũng.

Có khoảng 70% lượng mưa của bang này đổ xuống các núi và thung lũng phía bắc và xuống Sierra Nevada, nơi có rất ít trang trại hay các điểm đô thị, trong khi đó 80% lượng nước tưới được sử dụng ở miền Nam khô hạn hơn. Trong số các vùng canh tác lớn ở California chỉ có những vùng phía bắc San Francisco và một số thung lũng ven biển ở phía nam là được tiếp nhận trung bình 50 cm mưa hàng năm.

Nông trại là nơi sử dụng nước chủ yếu, song các thành phố là nơi khởi xướng sự phát triển một tổ hợp dẫn nước khổng lồ của bang. Vào đầu thế kỷ thứ 20, Los Angeles đã vượt quá sức của những nhà cung ứng nước ngầm của địa phương và tìm kiếm các nguồn nước bổ sung ở Thung lũng Owens, phía đông Sierra Verada và cách thành phố 300km về phía bắc. Vào năm 1913, hệ thống ống dẫn nước ở Los Angeles đã dẫn nước tới Los Angeles. Hiện nay, hệ thống dẫn nước này đã đáp ứng 1/2 nhu cầu nước của dân thành phố. Vào năm 1928, Los Angeles và 10 thành phố khác của miền Nam California đã xây dựng Metropolitan Water District nhằm phát triển nguồn cung cấp nước thỏa đáng cho khu vực này. Ngày nay Metropolitan Water District cung cấp nước cho 6 vùng, trên 130 thành phố và một nửa số dân của California.

Có lẽ giai đoạn đáng chú ý nhất trong lịch sử về nước ở California là vào năm 1905 ở Thung lũng Imperial. Năm 1901, các đơn vị tư nhân đã xây dựng các con kênh để dẫn nước từ sông Colorado đến Thung lũng Imperial, kết quả là sự bùng nổ đất nông nghiệp tức thì. Sau đó, vào tháng 2 năm 1905, sông Colorado bị lụt, phá vỡ hệ thống kênh. Trước khi có những nỗ lực lớn nhằm trả lại những con kênh này cho dòng sông vào mùa thu năm 1906, thì 1100 km2 đất thung lũng đã bị tràn ngập bởi Biển Salton.

Vào những năm 1940, Cục Cải tạo Đất trồng của Liên bang đã bắt đầu dự án Thung lũng Trung tâm nhằm cải thiện khả năng tưới nước ở Thung lũng Trung tâm. Ngày nay, nước chảy từ sông Sacramento theo các dòng kênh Delta – Mendota về phía nam dọc theo bờ tây của Thung lũng San Joaquin tới Mendota – nơi nó đổ vào sông San Joaquin. Do đó, hầu hết các dòng chảy bình thường của sông San Joaquin đều có thể được sử dụng cho tưới tiêu ở phần nam của thung lũng, khu vực nông nghiệp hàng đầu của California.

Đô thị ở California

Mặc dù nền nông nghiệp California có tầm quan trọng quốc gia, nhưng dân cư ở bang này chủ yếu sống ở vùng đô thị và có xu hướng tăng lên. Hầu hết người dân California sống ở một trong hai vùng đô thị lớn là Los Angeles và San Francisco.

Sự bùng nổ đất đai vào những năm 1880 đã dẫn đến sự hình thành nhiều trung tâm của các thành phố nằm rải rác trong Lòng chảo Los Angeles, và vùng đất ven biển Nam California. Khi dân số ở khu vực này tăng lên thì những cộng đồng này đã lấn sang các vùng đất nông nghiệp nơi mà trước đây đã chia cách họ.

Hầu hết 300 km dọc theo đường bờ biển từ Santa Barbara đến San Diego bây giờ là một siêu đô thị chạy dài, nơi sinh sống của hơn 15 triệu người California. Toàn bộ tổ hợp này về căn bản là một công trình của thế thứ 20. Do vậy, nhiều yếu tố của các thành phố phía đông được ghi dấu lên cảnh quan trong thế kỷ XIX và thế kỷ XX không hiện diện ở Los Angeles. Trong số những đặc điểm bị thiếu vắng đó là các toà nhà chung cư bốn hoặc năm tầng không có thang máy, những nhà kho có cùng độ cao như thế, và các tuyến giao thông công cộng có đường ra cố định ở trên cao hoặc ngầm dưới lòng đất.

Tác nhân kích thích quan trọng nhất ở các siêu đô thị miền Nam là các ô tô gia đình. Một nửa khu vực trung tâm của Los Angeles là dành cho ô tô, hoặc đường dành cho ô ô hoặc bãi đậu. Hệ thống dày đặc các con đường cao tốc ở khu vực đô thị tạo điều kiện dễ dàng cho sự di chuyển với tốc độ cao khắp các vùng của siêu đô thị này. Los Angeles có số ô tô trên đầu người nhiều hơn bất kỳ vùng nào khác của Hoa Kỳ, và hệ thống giao thông công cộng ở đây là rất nhỏ.

Cuối cùng, Los Angeles là một thành phố không có trung tâm. Khu vực buôn bán duy nhất theo kiểu truyền thống như là một tiêu điểm của các hoạt động đô thị hầu như không tồn tại. Los Angeles thực sự gồm nhiều thành phố cùng phát triển khi chúng được mở rộng về quy mô. Mười bốn trong số các thành phố này hiện có dân số hơn 100.000 người. Sự thiếu vắng một khu vực buôn bán chính đã dẫn đến sự hình thành các trung tâm độc lập cho mỗi cộng đồng.

Mặc dù ở khu vực này không phải là không có các nguồn lực nhưng tầm quan trọng tổng thể của chúng không nổi bật. Ngoài nông nghiệp thì sản xuất dầu mỏ cũng quan trọng, ba trong số các mỏ dầu chính của Mỹ nằm ở miền nam California. Chương trình khai thác ngoài khơi được bắt đầu vào năm 1965. Nhu cầu lớn về các sản phẩm dầu, đặc biệt là xăng, đã khiến cho hầu như toàn bộ sản lượng của miền Nam California chỉ đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng địa phương.

Miền Nam California được biết đến trên toàn thế giới như là địa điểm của Hollywood – trung tâm của ngành điện ảnh Mỹ. Lần đầu tiên trong lĩnh vực điện ảnh, cảnh ngoài trời và ánh sáng thiên nhiên được xem như chuẩn mực. Thời kỳ bầu trời không mây và nhiệt độ thấp trong một thời gian ngắn của khu vực này đã làm cho các đường phố và các cánh đồng trở thành một nơi lý tưởng cho phim ảnh. Los Angeles vẫn còn là một trong những trung tâm của ngành truyền hình và làm phim Mỹ, nhưng hiện nay ngành điện ảnh chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong nền kinh tế của siêu đô thị này, sử dụng chưa đến 2% số nhân công của thành phố.

Khí hậu và cảnh quan đa dạng, đặc biệt là dọc theo vùng ven biển, đã sớm làm cho miền Nam California trở thành một trong những trung tâm giải trí ngoài trời của nước Mỹ. Ngày nay, những lợi thế về thiên nhiên này còn được hỗ trợ bởi một số các cơ sở vui chơi giải trí lớn nhất và trang bị tốt nhất nước Mỹ. Công viên Balboa ở San Diego với vườn thú tuyệt vời, trang trại Knott’s Berns và Marineland là những địa điểm hấp dẫn lớn. Disneyland đã trở thành một biểu tượng của nước Mỹ và là địa điểm đến thăm của vô số khách du lịch.

Miền Nam California còn là một điểm quan trọng đối với những người dân gốc Mỹ Latinh và châu á di cư đến Hoa Kỳ. Tại các trường học ở Los Angeles cứ bốn học sinh thì có hơn một em nói tiếng nước ngoài trong số 104 thứ tiếng khác nhau tốt hơn là nói tiếng Anh.

Những người nhập cư gần đây đặc biệt thường định cư ở những vùng dân tộc lân cận. Một Tokyo thu nhỏ, dọc theo một phần của thành phố, mới được xây dựng lên. Monterey Park ở Thung lũng San Gabriel hiện có tới 50% người gốc châu á, khiến cho nó trở thành thành phố có nhiều dân châu á sinh sống nhất ở Hoa Kỳ. Các nhà hàng dân tộc ở đây rất đa dạng phong phú, ta có thể tìm thấy nhiều nhà hàng kiểu này ở các vùng dân tộc thiểu số lân cận hoặc rải rác trong thành phố.

Tuy nhiên, tất cả những điều này đều không thể tạo thành nguồn lực nuôi sống 15 triệu người. Các nguồn khoáng sản như than hay quặng sắt hầu như không có. San Diego có một hải cảng tốt, nhưng cảng của Los Angeles, hoàn toàn do con người tạo ra, chỉ được xếp vào loại trung bình.

Tuy nhiên, miền nam California thu được rất nhiều lợi ích từ những chi tiêu của Chính phủ hơn bất kỳ một khu vực nào khác ở nước Mỹ. California thu được khoảng 20% chi tiêu của Bộ Quốc phòng và khoảng một nửa tổng số chi tiêu của Cục Hàng không và Không gian Hoa Kỳ. Thành phố San Diego là căn cứ ở Vùng ven bờ biển phía Tây (West Coast) của hải quân Mỹ và lực lượng hải quân này dễ dàng trở thành người sử dụng nhân công chính của thành phố này. San Diego có số lượng việc làm trong ngành chế tạo ít đối với một khu vực đã được đô thị hóa có hơn 2 triệu dân, chắc chắn đây là một yếu tố quan trọng để thành phố này tuyên bố rằng nó là một trong những thành phố đáng sống nhất ở Mỹ. Ngoài ra, điện tử học – ngành có giá trị gia tăng cao do sản xuất đem lại và công nhân đóng vai trò đặc biệt quan trọng – là nhân tố đóng góp chính vào nền kinh tế của miền Nam California.

Los Angeles có doanh thu bán lẻ cao hơn thành phố New York và giá trị hàng chế biến của nó cũng cao hơn. Một thập kỷ trước đây, thành phố này đã vượt cả San Francisco trở thành một trung tâm tài chính của West Coast, nó xếp hàng thứ hai ở Mỹ sau Thành phố New York về các khoản tiền gửi ngân hàng. Hai cảng sinh đôi của Los Angeles và Long Beach cùng nhau hình thành nên trung tâm chuyên chở hàng hóa lớn, nhanh nhất trên thế giới, và đang phát triển. Hiện nay giá trị khối lượng hàng hóa xuất – nhập khẩu chuyên chở xuyên đại dương tại các cảng này đã dễ dàng vượt qua khối lượng chuyên chở tại cảng của New York và New Jersey.

So với nhiều thành phố cạnh tranh mới nổi lên ở phía nam, San Francisco đã lựa chọn hướng đi trở thành một thành phố cổ và mang tính quốc tế. Thành phố này là trọng điểm phía bắc thu hút sự chú ý của những người gốc Tây Ban Nha và Mexico ở California. Nó được coi như trung tâm cung cấp cho những nhu cầu về vàng của California. Vào năm 1850 nó là thành phố lớn nhất ở vùng bờ biển Thái Bình Dương, nó vẫn duy trì sự xếp loại này tới tận năm 1920. Việc hoàn thành tuyến đường sắt xuyên lục địa đầu tiên vào năm 1869, kết hợp với quy mô của thành phố và hải cảng tuyệt vời của nó khiến cho San Francisco không chỉ trở thành trung tâm của sự tăng trưởng ở miền tây Hoa Kỳ, mà còn trở thành địa điểm then chốt trong quan hệ thương mại của Hoa Kỳ với Thái Bình Dương. Số lượng lớn dân di cư từ châu á, đặc biệt là từ Trung Quốc, đến thành phố đã làm tăng thêm số lượng đáng kể những người nước ngoài sống tại đây. Họ đã tạo ra một sự pha trộn dân tộc mang tính quốc tế, điều này đã đem lại một khía cạnh rõ nét cho đặc điểm của thành phố.

Sự lãng mạn trong giai đoạn lịch sử ban đầu của thành phố giống như một phần của bức tranh khảm, khiến cho San Francisco trở thành một trong những thành phố nổi tiếng nhất của Mỹ. Địa lý tự nhiên đã mang lại một phong cảnh huy hoàng cho thành phố: những sườn núi dốc tạo ra những quang cảnh đầy ấn tượng về biển Thái Bình Dương và Vịnh San Francisco, kết hợp với khí hậu ôn hoà, đã xua tan đi cơn nóng bức khủng khiếp đôi khi xuất hiện vào mùa hè ở miền nam California.

Thành phố San Francisco hiện nay là nơi sinh sống của gần 1/8 trong số 5,4 triệu người ở Vịnh San Francisco. Nằm bao quanh một bán đảo nhỏ, thành phố này đang giảm sút dần về số lượng dân cư, trong khi khu vực đô thị tổng thể lại đang tăng lên.

Ngày nay, Vùng Vịnh (Bay Area) được kết hợp bởi nhiều vùng khác nhau, mỗi vùng có đặc điểm riêng của nó. Vịnh phía đông là vùng đa dạng nhất, là nơi pha trộn của các sinh viên đại học, những khu vực rộng lớn được định cư bởi tầng lớp trung lưu, nơi có nhiều bến cảng và ngành công nghiệp nặng trong khu vực. Vịnh San Jose South là nơi sinh sống của tầng lớp thượng lưu với những ngôi nhà mới, những bãi sân đẹp và các trung tâm buôn bán lớn trong khu vực. Dọc theo Vịnh phía bắc của San Francisco là Thung lũng Silicon, nó được đặt tên như vậy là vì nó là nơi tập trung của các công ty nghiên cứu về hóa học và điện tử kết hợp với sản xuất các linh kiện máy tính. ở phía bắc của Golden Gate Bridge, các thành phố nhỏ hơn, nơi đây có rất ít ngành sản xuất và sự xung đột giữa việc sử dụng đất cho nông nghiệp và đô thị đôi khi tỏ ra rõ nét. ở đây, có những người dân thành thị giàu có đang tìm kiếm một nơi trên đất nước để tới đó sinh sống. Bản thân Thành phố San Francisco, với mô hình các đường phố theo kiểu kẻ ô không phù hợp với địa hình đồi núi, với các khu nhà ở san sát vào cuối thế kỷ thứ 19 và vào đầu thế kỷ thứ 20, và với sự đa dạng của các dân tộc, vẫn có một nét quyến rũ đặc biệt.

Không giống như Los Angeles, sự tồn tại của các trung tâm đô thị lớn ở tại Bay Area không phải là điều gây ngạc nhiên. Hải cảng tuyệt vời của khu vực này và khí hậu tốt là những yếu tố địa lý quan trọng. Tính về khối lượng, đây là cảng Thái Bình Dương quan trọng ở Bắc Mỹ. Hệ thống đường sắt và đường cao tốc của nó nối với phía đông ít nhất cũng tương đương với hệ thống ở bất kỳ một thành phố nào thuộc West Coast. Cũng giống như siêu đô thị là khớp nối giữa nước Mỹ với châu Âu, San Francisco là khớp nối giữa Mỹ với châu á.