Khi người châu Âu bắt đầu đặt chân lên mảnh đất mà sau này trở thành Hoa Kỳ thì nơi đây mới chỉ có một số lượng rất khiêm tốn dân địa phương sinh sống, tổng cộng khoảng 800.000 người được tổ chức thành những bộ lạc phân tán.

Nền văn hóa của người Mỹ bản địa có sự đa dạng rất lớn. Chỉ riêng dọc bờ biển California đã có hàng trăm thứ phương ngữ được sử dụng. Người Pueblo, hiện nay vẫn còn sinh sống tại bang New Mexico, có lẽ bị ảnh hưởng khá nhiều về mặt văn hóa của người Aztecs phương nam, họ sống trong những thị trấn được xây dựng kiên cố và có những hệ thống thủy lợi tốt. Người Piutes sống trong Lòng chảo Great lại có những căn nhà hết sức tạm bợ và ham thích cuộc sống bán du mục, dựa vào việc hái lượm những loại rau quả có sẵn trong tự nhiên. Người Inuit, hay Eskimos, tồn tại ngay trước thời kỳ xâm nhập của người châu Âu, lại có mối liên hệ mật thiết về văn hóa với người Inuits ở Greenland và Sibêri.

Mặc dù đôi khi người Mỹ bản địa cũng là một rào cản đối với sự mở rộng vùng định cư của dân châu Âu, nhưng nhìn chung, những ảnh hưởng của họ rất nhỏ bé. Nhiều người đã chết vì các bệnh truyền nhiễm được du nhập vào như bệnh đậu mùa và bệnh sởi trước khi họ thực sự có những liên hệ trực tiếp với người Âu. Người Mỹ bản địa đã có đóng góp không nhỏ đối với những người Âu mới đặt chân đến vùng đất này, đặc biệt trong những thập kỷ đầu tiên. Nhưng họ lại thường bị tiêu diệt hay dồn ép vào các khu đất dành riêng ở miền Tây. Khi phạm vi cư trú của người Âu tiến dần sang phía Tây, người Mỹ bản địa và vùng cư trú dành riêng cho họ cũng di chuyển theo.

Các hình mẫu định cư

Mặc dù không thể đưa ra một con số chính xác về số người đã đến Hoa Kỳ từ châu Âu hay, với mức độ ít hơn, từ châu Phi, song một ước tính hợp lý đã cho thấy có khoảng 60 triệu người.

Những người đầu tiên nhập cư đến đây chủ yếu đến từ Tây Bắc Âu. Theo kết quả của cuộc điều tra dân số đầu tiên được tiến hành ở Mỹ năm 1790, hơn hai phần ba dân da trắng có nguồn gốc từ nước Anh, tiếp sau là Đức và Hà Lan.

Trong khoảng thời gian giữa những năm 1760 – 1815, những cuộc di cư đến Bắc Mỹ đã chậm lại. Đây là thời kỳ diễn ra các cuộc chiến ở châu Âu, Bắc Mỹ và Đại Tây Dương. Thời kỳ từ khoảng năm 1815 đến khi bắt đầu xảy ra Chiến tranh Thế giới thứ nhất vào năm 1914, luồng di cư đến đây có xu hướng tăng lên qua từng thập niên.

Trong nửa đầu thời kỳ 1815 – 1913, người di cư vẫn chủ yếu đến từ Tây Bắc Âu. Những thập kỷ tiếp theo, theo chân họ là dòng người từ Nam và Đông Âu. Tới năm 1913, hơn bốn phần năm số người nhập cư đến từ các miền này của châu Âu, đặc biệt từ Italy, áo – Hungary và Nga.

Lý do có sự dịch chuyển mạnh mẽ như vậy bắt nguồn từ tác động của cuộc cách mạng công nghiệp. Bắt đầu từ nước Anh và Hà Lan vào thế kỷ XVIII, dân di cư tràn xuống phía nam trong khoảng 150 năm sau đó. Cùng với công nghiệp hoá, dân số tăng nhanh do tỷ lệ chết giảm mạnh. Nền kinh tế chuyển dịch sang khu vực sản xuất, đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, tỷ lệ dân cư trong nông nghiệp giảm. Cầu về lao động đô thị tăng lên không theo kịp mức tăng trong lực lượng lao động, vì thế có rất nhiều người di cư tự nguyện.

Người ta vẫn thường nói rằng những người nhập cư vào Hoa Kỳ đã chọn những vùng đất có môi trường tự nhiên tương tự với môi trường ở quê hương châu Âu của họ. Khu định cư rộng lớn của những người Scandinavi ở Minnesota và Dakota là những minh chứng. Có thể có phần nhỏ sự thật nào đó trong ý kiến này, nhưng điều quan trọng hơn là, những bang này chính là đường biên định cư vào thời diễn ra dòng nhập cư khổng lồ của người Scandinavi. Trong hầu hết các trường hợp, bức tranh về các khuôn mẫu sắc tộc ở Mỹ là kết quả của việc di chuyển hướng tới cơ hội – những cơ hội được tìm thấy trước tiên là trên các vùng định cư nông nghiệp, sau đó là trong các thành phố.

Trường hợp ngoại lệ chủ yếu về hình mẫu định cư là trường hợp của người da đen ở Nam Mỹ. Họ bị ép buộc phải di chuyển như những nô lệ đến các đồn điền của khu vực này, đó là một phần nhỏ trong luồng di chuyển khổng lồ của người châu Phi đến Lòng chảo Caribê, bờ biển đông bắc của Nam Mỹ và đông nam nước Mỹ. Đứng sau cuộc di dân ở châu Âu, có lẽ đây là sự di chuyển với khoảng cách lớn hàng thứ hai trong lịch sử nhân loại. Có khoảng 20 triệu người đã rời khỏi châu Phi. Nhiều người cho rằng chưa đến 500.000 người da đen đã đến Hoa Kỳ. Đa số có lẽ đến từ vùng Caribê chứ không phải trực tiếp từ châu Phi. Cuộc tổng điều tra dân số năm 1790 cho thấy 20% dân số nước Mỹ có nguồn gốc châu Phi. Kể từ thời điểm đó, hầu như không có sự nhập cư của người châu Phi, và tỷ lệ người da đen trong dân số Mỹ đã giảm đi.

Hoa Kỳ đã thông qua đạo luật quan trọng đầu tiên của nước này nhằm hạn chế số lượng người nhập cư vào những năm 1920. Sự kiện này, cùng với cuộc Đại suy thoái những năm 1930 và Chiến tranh Thế giới thứ hai trong những năm 1940 đã làm cho lượng người di cư giảm xuống chỉ còn bằng một phần nhỏ so với mức cao nhất hàng năm vào năm 1913. Từ năm 1945, số lượng người di cư lại tăng lên đôi chút. Những đạo luật về nhập cư tự do hơn nhiều đã ra đời trong thập kỷ những năm 1960. Vào cuối những năm 1980, Mexico, Philipines và Tây ấn đã cung cấp khối lượng dân nhập cư lớn nhất tới Hoa Kỳ. Ngày nay, bình quân hằng năm Hoa Kỳ đón nhận khoảng 700.000 người nhập cư hợp pháp. Mỗi năm cũng có khoảng 275.000 người nhập cư bất hợp pháp vào đất nước này.

Những khu định cư đầu tiên của dân nhập cư thường nhỏ, tập trung ở ven biển và hướng về châu Âu nhiều hơn là hướng tới vùng đất đã thu hút họ đến. Khi bị đẩy ra xa dần đại dương một cách miễn cưỡng, các khu định cư vẫn đi theo các đường nước, bởi chúng là những tuyến vận chuyển thương mại tới các vùng ven biển và là một mắt xích quan trọng nối với châu Âu. Vì thế, người Anh đã định cư trên các vùng bờ biển gồ ghề thuộc Vịnh Chesapeake và các phụ lưu của nó, họ cũng định cư rải theo một tuyến mỏng hơn dọc theo vùng bờ biển không mấy bằng phẳng của bang New England. Người Hà Lan di chuyển lên sông Hudson từ New Amsterdam (New York), người Pháp cũng từng bước hình thành các khu định cư dọc hai bờ phía thượng nguồn sông St. Lawrence.

Trong suốt 150 năm đầu tiên kể từ hoạt động định cư vĩnh viễn của người Âu được bắt đầu – cho tới khoảng năm 1765 – những người châu Âu tiến về phía tây nhưng không vượt quá sườn phía đông của dãy núi Appalachia. Trong vòng một thế kỷ sau đó, ranh giới này đã tới được Thái Bình Dương và vào năm 1890, Uỷ ban quốc gia về điều tra dân số Hoa Kỳ đã có thể tuyên bố rằng ranh giới định cư của người Mỹ đã hoàn toàn biến mất.

high-angle photography of urban area

Việc mở rộng nhanh chóng các hoạt động định cư chủ yếu bắt nguồn từ sự định hướng lại trong thái độ đối với châu Âu. Trong những năm đầu thế kỷ XIX, ngày càng nhiều người Mỹ quan niệm rằng việc chiếm đóng lục địa này là vận mệnh hiển nhiên của họ. Những luật về đất đai của đất nước ngày càng đi theo khuynh hướng ủng hộ các hoạt động bành trướng. Thêm nữa, khi dân số tăng lên, càng có nhiều người hi vọng sẽ cải thiện được cuộc sống bằng cách đi về phía tây.

Ở nửa phía đông của Hoa Kỳ, mà điểm cực tây lấy Kansas và Nebraska làm mốc, các khu định cư di chuyển về phía tây theo một phương thức nói chung khá trật tự. Chắc chắn là những nơi gần đường giao thông, ví dụ sông Ohio, sẽ có tốc độ nhanh hơn, còn ở những nơi khác, tốc độ chậm hơn.

Hoạt động định cư nhanh chóng dịch chuyển về hướng tây, tới những đồng cỏ nội địa. Sông Mississippi và các phụ lưu của nó trở thành những tuyến giao thông hết sức thuận tiện để đi vào nội địa. Những người định cư đã tìm thấy những vùng đất nông nghiệp trù phú với khí hậu nói chung thuận lợi cho trồng trọt trải dài từ mép phía tây của dãy núi Appalachia tới tận Great Plains.

Tuy nhiên, từ Rocky Moutains theo hướng tây, và tại Alaska, hình mẫu mở rộng định cư đồng đều đã không diễn ra. Phần lớn diện tích rộng lớn này có khí hậu quá khô, quá nóng hoặc quá lạnh đối với hoạt động trồng trọt. Địa hình gồ ghề gây trở ngại cho giao thông và càng hạn chế hơn nữa sự phát triển nông nghiệp. Dân định cư tập trung chủ yếu tại các vùng có tiềm năng kinh tế dễ nhận thấy. Kết quả là một hình mẫu các điểm định cư phân tán trên một vùng cảnh quan rộng lớn hầu như không có người ở.

Vào năm 1990, Hoa Kỳ có gần 250 triệu dân, mật độ khoảng 235 người/ km2. Có thể xác định ba khu vực dân cư chính. Thứ nhất, khu vực trọng điểm có hình vòng cung bao gồm một loạt các thành phố Boston (Massachusetts), Chicago (Illinois), St. Louis (Missouri) và thủ đô Washington: 7 trong số 12 bang có dân số cao nhất nước Mỹ tập trung ở đây. Đây là khu vực phát triển sớm nhất và trong suốt một thời gian dài là vùng có ưu thế về phát triển kinh tế. Những tuyến giao thông tự nhiên tuyệt vời, nhiều hải cảng lý tưởng dọc theo bờ Đại Tây Dương được bổ sung bằng một hệ thống giao thông dày đặc. Một số vùng đất nông nghiệp màu mỡ nhất của đất nước cộng với những vùng khoáng sản giàu có tập trung trong khu vực này hoặc kề cận đó.

Bao quanh rìa phía tây và nam của khu vực trọng điểm, mở theo hướng tây đến các phần phía đông của Great Plains là khu vực dân cư thứ hai. Phần lớn những vùng đất đai thuận lợi nhất cho phát triển nông nghiệp của nước Mỹ nằm trong khu vực này và đại bộ phận đất đai nông nghiệp đầy tiềm năng đó cũng đã được khai thác. Hầu hết diện tích nơi đây đều có dân cư sinh sống, mặc dù mật độ nói chung là thấp hơn nhiều so với mật độ ở khu vực trọng điểm. Các thành phố chiếm địa bàn rộng hơn và phân bổ đều hơn, chúng cũng là những trung tâm dịch vụ và sản xuất chính của khu vực.

Cuối cùng, một khu vực dân cư ngoại vi nằm trên phần đất tính từ trung tâm Great Plains sang phía tây. Một mô hình tăng trưởng dân số và kinh tế tại những vị trí có tiềm năng đặc biệt, trong một khu vực bị hạn chế về mặt khác, vẫn tiếp tục giữ vị trí thống trị. Mặc dù hiện nay một số nơi đã có mật độ dân cư rất đông đúc – đặc biệt là vùng Vịnh San Francisco thuộc bang California, Lòng chảo Los Angeles, vùng đất thấp Puget Sound thuộc bang Washington – hầu hết phần đất còn lại có mật độ dân cư thưa thớt.

Lịch sử di dời của Hoa Kỳ có thể chia thành ba thời kỳ. Thời kỳ đầu là sự dịch chuyển từ đông sang tây, tiếp sau là từ nông thôn ra thành thị, và cuối cùng, thời kỳ hiện nay, khi mà sự di chuyển có khoảng cách lớn nhất là sự di chuyển giữa các vùng siêu đô thị. Nếu như dân số của đất nước đã dịch chuyển sang phía tây qua từng thập kỷ, thì quá trình đô thị hóa cũng diễn ra đều đặn tương tự như vậy. Nếu như vào năm 1790 chỉ có khoảng 10% dân số có thể được định nghĩa một cách lỏng lẻo là dân đô thị thì vào năm 1990 ba phần tư dân số đã được đô thị hoá.

Những số liệu thống kê này không chỉ phản ánh sự sụt giảm tương đối của dân cư nông thôn mà còn phản ánh mức sụt giảm tuyệt đối của dân số nông nghiệp. Ví dụ giai đoạn giữa 1960 và 1987 số dân sống bằng các hoạt động nông nghiệp đã giảm từ mức trên 15 triệu xuống còn dưới 6 triệu người.

Sự di chuyển từ đông sang tây và từ nông thôn ra thành thị ở Mỹ rõ ràng đều là kết quả của sự nhận thức về các cơ hội kinh tế. Trước hết, khi ranh giới định cư được đẩy về phía tây thì diện tích đất nông nghiệp sẵn có ngày càng được mở rộng. Tiếp theo, cuộc cách mạng công nghiệp đã đem lại sự bùng nổ công ăn việc làm ở các đô thị. Khi mà người Mỹ chủ yếu sống ở đô thị và các cơ hội kinh tế cũng tập trung tại đây, thì sự di chuyển của các luồng dân cư đương nhiên sẽ chỉ diễn ra giữa các siêu đô thị do sự khác biệt về các cơ hội kinh tế giữa các trung tâm này.

Số liệu thống kê về dân số Hoa Kỳ cho những năm 1970 và 1980 đã cho thấy thời kỳ di dời thứ tư bắt đầu xuất hiện. Những nơi mà trong một thời kỳ dài dân số không thay đổi hoặc thậm chí sụt giảm thì nay đang lớn lên. Nhiều vùng của miền Nam là ví dụ điển hình.

Nhiều nhà quan sát nhận định rằng Hoa Kỳ đã trở thành một quốc gia hậu công nghiệp. Những vùng tăng trưởng chính sẽ nằm trong ở những ngành cung cấp các dịch vụ, thao túng và tạo ra thông tin. Số lượng lao động Mỹ được sử dụng trong các ngành chế tạo chỉ tăng với mức độ rất thấp trong suốt hai thập kỷ qua. Trong khi đó lao động trong khu vực thứ ba và thứ tư(1) đã bùng nổ nhanh chóng. Phần lớn trong sự tăng trưởng này diễn ra trong các khu vực chế tạo sản phẩm giá trị cao, trọng lượng nhẹ, thí dụ như các linh kiện điện tử. Những cơ sở sản xuất này có thể đặt tại hầu như bất cứ đâu, vì vậy ngày càng nhiều người có thể sống ở nơi họ thích.

Đô thị hoá

Gần như trên khắp nước Mỹ đều có những vùng đô thị đã lớn lên về quy mô và dân số. Trong một số trường hợp mức tăng trưởng quá lớn và kích thước của các thành phố chính đã trở nên quá rộng đến mức nhiều vùng đô thị đã sáp nhập lại và hình thành các chùm thành phố. Nhóm các đô thị lớn khởi đầu từ Boston (Massachusetts) tới thủ đô Washington, dọc theo bờ biển đông bắc Hoa Kỳ chính là một ví dụ rõ ràng nhất. Một quần thể đô thị khác – phân tán hơn và gồm các thành phố trung tâm nhỏ hơn – được thấy ở bờ phía nam của Great Lakes. Milwaukee (Wisconsin) và Chicago (Illinois) xác định khu vực này tại phía tây, còn về phía đông là Buffalo (New York) và Pittsburgh (Pennsylvania). Nhiều nhà quan sát còn cho rằng, vùng nam California, từ San Diego tới San Francisco, với tư cách là một tập hợp khác của các vùng đô thị, sẽ được sáp nhập vào cuối thế kỷ XX, cũng giống như phần lớn vùng ven biển phía đông và trung tâm Florida.

Hầu hết các khu đô thị lớn đã phát triển đều là nơi có các mạng lưới giao thông nối liền với nhau. Tương đối phổ biến là sự phối kết hợp giữa cả đường bộ và đường thuỷ. Một số trung tâm đô thị nằm trên các vùng bờ biển hoặc cửa sông lớn. Một số khác nằm trên các đường thủy tự nhiên. Cũng có những đô thị có đường thủy nhân tạo là các kênh đào hoặc các con sông tự nhiên đã bị điều chỉnh dòng chảy. Đương nhiên còn có nhiều nhân tố khác phải tính đến: chất lượng vùng đất cảng, sự gần với các phương tiện giao thông thay thế, vấn đề an ninh và thậm chí là tính lành mạnh của môi trường địa phương. Tuy nhiên, tại những nơi người và hàng hóa phải chuyển từ một loại hình phương tiện giao thông này sang một loại hình phương tiện giao thông khác, những hoạt động như chế biến, trao đổi, chế tạo, đóng gói lại, bán và mua hàng hoá, lại có cơ hội phát triển.

Có một số trường hợp ngoại lệ trong định hướng tới mặt nước như Atlanta (Georgia), Denver (Colorado) và Dallas-Ft.Worth (Texas). Tuy nhiên, những thành phố này đã sớm nằm trên một số tuyến giao thông thuộc một loại nào đó. Thành phố Atlanta nằm ở mũi phía nam của dãy Appalachia đã trở thành trung tâm chính trong đất liền của vận tải đường sắt ở miền Nam trong những năm 1860.

Các hình mẫu của văn hóa khu vực

Một số người cho rằng một trong số các sức mạnh to lớn của Hoa Kỳ nằm ở chỗ đây là đất nước rộng nhất và có số dân đông nhất được gắn bó chặt chẽ cả về mặt địa lý và xã hội bởi một ngôn ngữ chung. Tuy nhiên, hầu hết các khu vực được xác định theo cuốn sách này đều ít nhất cũng phần nào là những khu vực văn hoá.

Sự khác biệt giữa các khu vực về văn hóa có thể được thể hiện qua rất nhiều cách. Indiana, Kentucky, Ohio và Illinois đào tạo được nhiều cầu thủ bóng rổ hơn mức trung bình của cả liên bang. Đại bộ phận các ca sỹ trong thời kỳ đầu đều xuất thân từ phần phía bắc của miền Nam.

Cảnh quan ở mỗi vùng đều là sự pha trộn giữa môi trường tự nhiên và một dấu ấn văn hoá. Hệ thống điều tra đất được sử dụng rộng rãi trong thế kỷ XIX ở Hoa Kỳ đã hình thành được một bản đồ chi tiết đến ngạc nhiên về hầu hết vùng Middle West. Những nông dân người Anh và Đức thuộc miền đông nam bang Pennsylvania đã xây dựng những khu chuồng trại lớn, những kho chứa cỏ khô với tầng hai nhô ra khỏi tầng một ở một bên. Trong khi các sinh viên kiến trúc có thể bàn cãi về nguồn gốc của lối kiến trúc này thì hầu hết mọi người đều thừa nhận rằng “khu chuồng trại Pennsylvania” là một nhân tố văn hóa đặc trưng hết sức nổi bật của bang. Những khu cư trú của người thiểu số trong các thành phố có thể được xác định đơn giản chỉ bằng cách nhìn lên bảng hiệu các hàng ăn ven đường.

Trong khi rất nhiều nét văn hóa có tính bảo thủ và ổn định, thì sự thay đổi luôn là một nét đặc trưng trong văn hóa Mỹ. Nhiều trong số các thay đổi này là do những tiến bộ công nghệ và sự chuyển biến trong các điều kiện kinh tế. Một nhân tố không kém phần quan trọng khác là luồng dân nhập cư vào Mỹ.

Một trong những nhân tố độc đáo của văn hóa Mỹ, có tính thú vị và đáng được đề cập nhất là tôn giáo. Hàng loạt các dòng đạo Công giáo lớn được du nhập vào Mỹ nhờ dòng dân di cư từ châu Âu. Sự phân bố của các giáo phái này liên hệ mật thiết với những vùng mà dân di cư và các con chiên của họ chiếm phần đa số. Người định cư Đức và Scandinavi đem đến phía bắc Great Plains và phía tây bắc của Trọng điểm Nông nghiệp (Agricultural Core) giáo phái Luthơ. Người gốc Tây Ban Nha ở miền Tây Nam Mỹ; người Đông và Nam Âu sinh sống ở đông nam, Middle West và hầu hết các thành phố lớn khác nằm ngoài miền Nam; người Pháp Acadi sinh sống ở phía nam bang Lousiana – tất cả đều giải thích cho sự phân bố hết sức đa dạng của các dòng đạo công giáo ở Mỹ.

Hoa Kỳ cũng là nơi sản sinh ra những dòng đạo năng động. Nhiều giáo phái như Tân giáo (Episcopalians) tách ra từ giáo phái Anh (English Anglican) vào cuối thời kỳ Cách mạng Mỹ cuối những năm 1700. Giáo phái Trưởng lão (Presbyterianism) của Hoa Kỳ được chia thành nhiều dòng đạo nhỏ hơn, kết quả của sự phân tách sau Nội chiến.

Một cách giải thích khác là tính sáng tạo của tôn giáo Mỹ. Các cá nhân thiết lập nên những giáo phái của riêng mình – hoặc những giáo đoàn hay các nhóm giáo dân từ bỏ giáo phái này để hình thành nên một giáo phái mới – do sự bất đồng đối với những vấn đề như việc giải thích theo kinh thánh hay sự điều hành của nhà thờ.

Một giáo phái có gốc gác từ Mỹ là giáo phái Chúa Cứu thế của các vị thánh hiện đại, thường được biết đến với tên gọi giáo phái Mormon. Được thiết lập tại phía bắc New York vào giữa thế kỷ XIX, giáo phái này được các tín đồ của nó mang theo về phía tây với hy vọng tìm kiếm một vùng đất biệt lập để định cư và theo đuổi những đức tin của họ. Cuối cùng, họ đã chọn Utah. Ngày nay, phần lớn cư dân ở Utah là người theo đạo Mormon.

Những người theo giáo phái Rửa tội (Baptist) ở phía nam là một sự kết hợp đáng chú ý của một số cách giải thích trên đây. Đạo Rửa tội được những người châu Âu du nhập vào Mỹ, với tư cách là một giáo phái không chính thức, tìm kiếm quyền tự do trong sự thờ cúng. Trong khoảng phần ba cuối của thế kỷ XIX, giáo phái này gần như là sự thể hiện bằng tôn giáo của nền văn hóa miền Nam và trở thành giáo phái có vị trí thống trị trong khu vực. Một trong những biện pháp để xác định một cộng đồng là thuộc về nền văn hóa miền Nam chắc chắn phải là trong cộng đồng đó phải có ít nhất một nhà thờ của giáo phái Rửa tội phương Nam.