I. Tranh luận về việc đặt tên đường Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông ở Hà Nội – Triều đại Mạc Đăng Dung và Mạc Đăng Doanh 

Đầu tháng 6/2015 Sở VHTT&DLHà Nội đã đề xuất HĐNDTP Hà Nội đặt hai con phố mang tên Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông thuộc quận Cầu Giấy. Trong đó, tên phố Mạc Thái Tổ (tức vua Mạc Đăng Dung) được đặt cho đoạn đường từ ngã ba giao cắt đường Phạm Hùng đến ngã tư giao cắt phố Trung Kinh, có chiều dài 900m, rộng 60m. Còn đoạn đường đặt tên phố Mạc Thái Tông (tức vua Mạc Đăng Doanh) từ ngã ba giao cắt với đường Phạm Hùng (cạnh công ty cổ phần lắp máy xây dựng, đối diện cổng sau Trung Tâm Hội Nghị Quốc Gia) đến ngã tư giao cắt với phố Trung Kinh, nối tiếp phố Vũ Phạm Hàm, có chiều dài 840m, rộng 17m. (trích “Tranh luận xung quanh việc đặt tên phố Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông ở Hà Nội”-Thanh Hằng)

Mạc Đăng Dung (Mạc Thái Tổ) từ một ngư dân tới ngôi vua

Như vậy so với các con đường ở Hà Nội và trên toàn quốc thì đây là hai con đường rộng và bề thế nhất nước.

Việc đặt tên đường Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông đã làm dấy lên cuộc tranh luận gay gắt giữa hai quan điểm ủng hộ và chống, nhưng xem ra quan điểm ủng hộ chiếm đa số với những nhà sử học tên tuổi như GS sử học Văn Tạo, nguyên viện trưởng Viện Sử học, giáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, PGS.TS Đinh Quang Hải, Viện trưởng Viện Sử học – Viện hàn lâm KHXH Việt Nam v.v…

Theo ý kiến của các nhà sử học này thì:

– Khi khủng hoảng cung đình diễn ra trầm trọng, triều đình đổ nát, dân tình cực khổ, Mạc Đăng Dung đã dẹp được các phe phái phân chia cát cứ, lên ngôi tạo dựng được cơ nghiệp. Với 65 năm tồn tại và phát triển, nhà Mạc đã có cống hiến nhất định trong lịch sử.

– Mạc Đăng Dung còn được đánh giá cao vì ông phế bỏ nhà Lê sơ để lên ngôi nhưng đãkhông thi hành một cuộc tàn sát nào với con cháu những người trung thành với nhà Lê như đã từng xảy ra khi nhà Trần lên thay nhà Lý, nhà Hồ lên thay nhà Trần…

Phe phản đối tiêu biểu là PGS.TS Trần Thị Băng Thanh đã đưa ra các dẫn chứng từ sử sách của ta và cả triều Minh (TQ) để chứng minh đối sách ngoại giao sai lầm của nhà Mạc khi dâng đất, xin hàng, xin nội thuộc nhà Minh nên không thể coi là có công với đất nước…Riêng nhà sử học Lê Văn Lan từ chối cho biết ý kiến. (theo Thanh Hằng, bài đã dẫn).

Gần đây trên diễn đàn mạng có bài viết của Tôn Nữ Tịnh Tâm với tiêu đề Viết Tiếp “CẤM PHÓNG UẾ VÀO LỊCH SỬ” (trao đổi về bài tạp văn “Cấm phóng uế vào lịch sử” của Hoàng Thiếu Phủ -Hồn Việt số 90 trang 2&3- 2015) trong đó tác giả phản ứng gay gắt lập luận của Hoàng Thiếu Phủ khi HTP kể tội Mạc Đăng Dung (tội cướp ngôi, tội đầu hàng, tội cắt đất) và ngược lại tác giả đã kể nhiều công lao to lớn của Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc:

– Chấm dứt tình trạng loạn lạc nghiêm trọng của Đại Việt, mở ra một thời kỳ thái bình thịnh trị.

– Quan tâm đến giáo dục

– Kinh tế phát triển, đặc biệt nông nghiệp

– Lòng người hướng về nhà Mạc vẫn chưa hết khi vận trời đã về nhà Lê trung hưng
Tôn Nữ Tịnh Tâm đã trích dẫn từ các nguồn sử sách như Đại Việt sử ký toàn thư của các sử thần nhà Lê, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ, Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim để chứng minh lập luận của mình, nhưng tiếc thay những lập luận này thiếu vũng chắc , trích dẫn không đầy đủ hoặc tác giả không hiểu hết ý của các sử gia.

Trong mong muốn làm sáng tỏ những nghi vấn lịch sử, đồng thời đánh giá đúng vai trò của Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc đối với lịch sử Việt Nam, dựa vào các nguồn sử liệu đáng tin cậy, chúng ta hãy ngược dòng lịch sử tìm hiểu sự xuất hiện và vị trí của Mạc Đăng Dung cùng triều đại nhà Mạc trên chính trường Đại Việt vào những năm của thế kỷ XVI.

Nhà Hậu Lê từ Lê Thái Tổ (1428-1433) đến Lê Hiến Tông (1497-1504) rất thịnh trị, đặc biệt triều đại vua Lê Thánh Tông (1460-1497), đất nước ta phát triển về mọi mặt, dân cư no ấm, chính trị ổn định, lân bang nể phục.

Đến năm 1505 vua Lê Túc Tông (con của Hiến Tông) lên nối ngôi chỉ được 6 tháng thì mất, triều đình tôn người anh thứ hai của Túc Tông là Tuấn lên làm vua, tức vua Uy Mục (1505-1509).Kể từ khi Uy Mục lên ngôi, nhà Lê bước vào thời kỳ suy yếu. Uy Mục là vị vua hung ác, mới lên ngôi đã giết tổ mẫu là bà Thái hoàng Thái hậu, quan Lễ bộ Thượng thư là ông Đàm Văn Lễ và quan Đô ngự sử là ông Nguyễn Quang Bật vì khi vua Hiến Tông chết, những người này không chịu lập Uy Mục làm vua.

Chính vì cần người có sức khỏe để bảo vệ ngai vàng, nên thời Uy Mục, Mạc Đăng Dung, cháu 7 đời của danh thần Mạc Đĩnh Chi, nhà nghèo làm nghề đánh cá, có sức khỏe, dự thi nghề Giao chật (đánh vật) trúng Đô lực sĩ xuất thân, được sung vào Túc vệ, giữ việc cầm dù theo vua, rồi thăng bổ chức Đô chỉ huy sứ vệ Thiên vũ. Năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) thời Tương Dực, được thăng làm Đô chỉ huy sứ Vũ Xuyên bá, (năm này Đăng Dung 29 tuổi). Thời Quang Thiệu (Chiêu Tông), triều đình sai trấn thủ Sơn Nam, gia phong chức phó Tướng Tả đô đốc. ( ĐVTS trang 34 và ĐVSKTT quyển XV trang 591 bản điện tử).

Như vậy Mạc Đĩnh Chi và Mạc Đăng Dung đều được nhà Trần và nhà Lê trọng dụng. Nhưng nếu Mạc Đĩnh Chi được nhà Trần trọng dụng vì học thức rộng và sự thanh liêm thì Mạc Đăng Dung được các vị vua cuối đời Lê tin dùng nhờ cơ bắp nhằm bảo vệ ngai vàng vì lúc này chính sự nhà Lê đã đổ nát (bên ngoài giặc giã nổi lên, trong triều thì quan lại chia phe đánh nhau).

Theo Đại Việt Thông sử (trang 35 bản điện tử) thì “Đăng Dung là người rất gian trá, nhưng bề ngoài làm ra vẻ thật thà ngay thẳng, để mua danh dự…”.. Việt Nam Sử Lược trang 274 ghi: “Mạc Đăng Dung bấy giờ quyền thế hống hách, ra vào cung cấm tiếm dụng nghi vệ thiên tử. Các quan ai có vì nhà vua mà can gián điều gì, thì Đăng Dung tìm cách giết đi. Các quan triều thần có nhiều người thấy quyền lớn về cả họ Mạc, cũng bỏ vua mà theo phò Mạc Đăng Dung.” Hể Đăng Dung dâng sớ xin giết ai thì các vua Lê đều nghe theo như trường hợp Cù Khắc Xương, Trần Công Vụ hay Lê Quảng Độ… bị giết thời Chiêu Tông (Toàn Thư trang 574-575 bản điện tử,Đại Việt Thông Sử trang 35 bản điện tử). Đây là điều kiện thuận lợi để Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê.

Năm Quang Thiệu thứ 3 (1518) thời Chiêu Tông, Mạc Đăng Dung thăng tước Vũ Xuyên Hầu, ra trấn thủ Hải Dương, thu thập dân quân, chỉnh đốn đội ngũ, binh số ngày thêm nhiều. Lúc này Thiết Sơn Bá Trần Chân nắm quyền binh trong Kinh Sư, Đăng Dung bèn cưới con gái Chân cho con trai mình là Đăng Doanh để làm vây cánh.(ĐVTS trang 36)

Vua Chiêu Tông nghe lời gièm pha giết Trần Chân khiến đồ đệ của Trần Chân cử binh đánh vào kinh đô, nhà vua chạy sang huyện Gia Lâm, triệu Hoằng Dụ cứu nhưng Dụ không đến, nhà vua đành sai người đi triệu Mạc Đăng Dung. “Ý ngài muốn cậy binh lực của Đăng Dung để khôi phục lại Kinh Sư. Nhưng Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, bèn nẩy ra mưu đồ khác”(ĐVTS trang 36 bản điện tử). Trang 37 ĐVTS ghi “Sau khi Đăng Dung một mình giữ binh quyền, từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày càng thịnh, mà đạo quân nhà vua thì yếu ớt, lòng người ai cũng hướng về Đăng Dung, nên y càng lưu tâm mưu việc phản nghịch.”

Thế mà Tôn Nữ Tịnh Tâm cũng trích dẫn từ “Đại Việt Thông Sử” của Lê Quý Đôn nhưng lại cắt bỏ phần không lợi cho lập luận của mình để dựng lên hình tượng một Mạc Đăng Dung xứng đáng với ngôi thiên tử vì được dân tin yêu. TNTT ghi “Sau khi Mạc Đăng Dung một mình giữ binh quyền, từng bình được nhiều giặc lớn, uy quyền ngày càng thịnh, lòng người ai cũng hướng về ” (TNTT ghi chú trang 15). TNTT đã cắt bỏ phần sau (“nên y càng lưu tâm mưu việc phản nghịch”)

Chúng ta đều biết nhân dân chỉ muốn một cuộc sống thanh bình để làm ăn sinh sống nên việc hướng về Mạc Đăng Dung vì Dung đã dẹp được giặc giã là chuyện tất nhiên. Còn mưu đồ của Đăng Dung như thế nào, Dung có xứng đáng làm thiên tử hay không lại là vấn đề khác.

Kể từ đó Đăng Dung tự xem mình như thiên tử. “…Khi Đăng Dung đi đường bộ thì dùng lọng phượng bông vàng; khi đi đường thủy thì dùng thuyền rồng dây lụa. Tự do ra vào nơi cung cấm, không hề nể sợ. Lại giết hết những người tâm phúc của vua…” (ĐVTS trang 37). Điều này chứng tỏ Đăng Dung là kẻ hiếu sát, rắp tâm cướp ngôi nhà Lê. (Các sử gia Hà Nội cho rằng MĐD không giết những ai trung thành với vua Lê ).

Dĩ nhiên khi một triều đại quá thối nát thì việc thay thế một triều đại khác là vấn đề bức thiết, nhưng không thể là một triều đại mà thiên tử là kẻ hiếu sát với dân và hèn hạ với ngoại bang như Mạc Đăng Dung được.

Vua Chiêu Tông thấy tình thế bức bách bèn ngầm với Nguyễn Hiến và Phạm Thứ dời kinh đô ra ngoài hiệu triệu các tướng đến giúp. Ngày hôm sau Đăng Dung mới biết bèn sai quân ngăn chặn khắp nơi, lập Hoàng đệ Xuân lên ngôi tức vua Cung Hoàng.(1522-1527)

Vua Chiêu Tông chạy lên Sơn Tây, nhiều người hào kiệt về giúp ngày càng đông, nhưng vì vua nghe lời những kẻ hoạn quan không nghe lời các tướng, lòng người ly tán. Năm Giáp Thân (1524) Đăng Dung đánh Thanh Hóa, Trịnh Tuy thua trận chết, vua bị bắt đem về Đông Hà (huyện Thọ Xương), rồi bị giết. Vua Chiêu Tông làm vua được 11 năm, thọ 26 tuổi.

Tháng 6 Đinh Hợi (1527) Đăng Dung bắt các quan nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc, dùng năm này làm niên hiệu Minh Đức thứ nhất, bỏ Cung Hoàng xuống tước Cung vương, giam cùng Thái Hậu ở cung Tây nội, rồi giết chết . Đăng Dung sai đem xác hai người để phơi ngoài quán Bắc sứ, sau đưa về chôn ở lăng Hoa Dương, huyện Ngự Thiên theo nghi lễ của thiên tử và hoàng hậu. (TT trang 591quyển XV bản điện tử). Lúc này thần dân thất vọng, thiên hạ nôn nao (ĐVTS trang 40).

Các quan trong triều không phục, nhiều người đã phản kháng: nhổ vào mặt Đăng Dung, lấy nghiên đập vào mặt Đăng Dung, chưởi mắng… tất cả những người này đều bị Đăng Dung giết, có người nhảy xuống sông mà chết, có người thì quay đầu về Lam Sơn mà lạy rồi tự tử (VNSL trang 275).

TNTT trích tờ chiếu nhường ngôi của Cung Hoàng để biện minh cho sự cướp ngôi của Mạc Đăng Dung. Thực tế chiếu nhường ngôi được các quan nhà Lê thảo ra dưới sức ép của Đăng Dung dĩ nhiên phải ca tụng Đăng Dung nhằm hợp thức hóa việc cướp ngôi này là chính đáng.TNTT còn trích một cách có chủ ý câu ”…Bấy giờ, thần dân trong kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Mạc Đăng Dung vào kinh ” nhưng bỏ phần đầu. Câu đầy đủ đoạn này là “Tháng 6, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào Kinh, bắt vua (Cung Hoàng) nhường ngôi. Bấy giờ, thần dân trong kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Đăng Dung vào kinh” (TT trang 590 bản điện tử). Việc “thần dân trong kinh đều theo Mạc Đăng Dung và đều đón Đăng Dung vào kinh” chẳng qua cũng là sự mong ước của thần dân cho một tương lai đất nước sáng sủa hơn , có ngờ đâu chỉ là sự lừa bịp.

Mùa đông tháng 12 Kỷ Sửu (1529), Mạc Đăng Dung cướp ngôi được 3 năm, tự thấy mình tuổi già (lúc này MĐD 47 tuổi) bèn truyền ngôi cho con trưởng là Đăng Doanh, tự xưng Thái thượng hoàng, ra ở điện Tường Quang, coi nghề đánh cá là thú ngao du tự lạc. (TT trang 593 bản điện tử). ĐVTS ghi .”Tuy đã nhường ngôi nhưng thực tế mọi việc trong nước đều do Đăng Dung định đoạt..” (Đăng Doanh ở ngôi được 10 năm 1530-1540)

Đăng Dung về Cổ Trai ở để trấn vững nơi căn bản, và làm ngoại viện cho Đăng Doanh (ĐVTS trang 41).

Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo cho nhà Minh rằng con cháu nhà Lê không còn ai, xin tạm coi việc nước, cai trị dân chúng. Vua Minh không tin, sai người sang thăm dò, Dung đem vàng bạc đút lót để sứ giả tâu với vua Minh rằng con cháu họ Lê đã hết, không ai nối ngôi được nên ủy thác cho họ Mạc. Vua Minh mắng không nghe, Đăng Dung sợ nhà Minh hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng hai châu Quy, Thuận, hai tượng người bằng vàng và bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận. Từ đấy Nam Bắc lại thông sứ đi lại.(TT trang 592 quyển XV bản điện tử).

Ở tội đút lót vàng bạc và cắt đất dâng cho nhà Minh của Mạc Đăng Dung, TNTT so sánh với việc Lê Lợi sau chiến thắng quân Minh cũng dâng biểu cầu phong, cũng nộp lễ cống, nộp tượng vàng thế thân v.v..để biện minh cho hành động hèn nhát của Mạc Đăng Dung trước ngoại bang mà không hiểu (hoặc cố tình không hiểu) rằng Bình Định vương Lê Lợi đứng trên cương vị vua của nước nhỏ thắng trận muốn có một chính sách hòa bình lâu dài với nước lớn cận kề để tránh cho dân tộc khỏi chịu cảnh đao binh triền miên. Đây là sự nhún nhường ngoại giao cần thiết cho bất cứ nhà lãnh đạo các nước nhỏ nào. Còn với Mạc Đăng Dung lại khác, đó là tội cướp ngôi giết vua trắng trợn không có sự đồng thuận của toàn dân ngoại trừ những kẻ a dua “theo đóm ăn tàn”, và tội khiếp nhược hèn nhát trước ngoại bang.

Năm Đinh Dậu (1537) vua nhà Minh (nhân cơ hội này) sai Cừu Loan làm Đô đốc, Mao Bá Ôn làm Tán lý quân vụ, đem quân đem quân sang đóng gần cửa Nam Quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, thưởng quan tước và hai vạn bạc cho ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung. Lại sai người mang thư sang cho Mạc Đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất nhân dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết. Đăng Dung sai bọn Nguyễn Văn Thái sang sứ nhà Minh xin hàng (VNSL trang 294).

Đến tháng 11 Canh Tý (1540) Đăng Dung vận áo trắng, tự quấn dây sợi vào cổ, dẫn cháu họ là Văn Minh cùng bầy tôi (9 người), mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ (biểu thị sự tự trói mình và chịu nhận hình phạt – ghi chú của Toàn Thư trang 599 quyển XVI bản điện tử) đến chực ở cửa Nam Quan, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh, quỳ gối, cúi đầu dâng biểu đầu hàng và bạ ghi chép thổ địa quân dân trong nước, tình nguyện nộp các động Tư Lẫm, Kim Lặc, Cổ Sâm và Liễu Cát trong châu Yên Quảng và châu Vĩnh Yên để lệ thuộc vào Khâm Châu; xin ban cho niên lịch và ấn tín. Sau khi tướng nhà Minh nhận hàng, bèn sai Văn Minh, Nguyễn Giản Thanh và Hứa Tam Tỉnh mang tờ hàng biểu đầu hàng tới Yên Kinh dâng vua Minh.( ĐVTS trang 42-43,TT trang 599 quyển XVI bản điện tử). Hành động đầu hàng nhục nhã này của Đăng Dung chưa thấy ở một vị vua nào của nước ta nhưng đáng tiếc TNTT lại dùng những luận điệu ngụy biện để gỡ tội cho Đăng Dung: “MĐD không “phản quốc” “nhục nhã” “hèn hạ” như ai đó đã kết tội (ám chỉ Hoàng Thiếu Phủ), mà ngược lại là một người đáng kính trọng vì đã dám hy sinh danh dự cá nhân cho đại cục của dân tộc, nhờ đó tránh được nguy cơ chiến tranh xâm lược từ nước láng giềng khổng lồ”.

Hành động “đi chân không, quỳ gối, cúi đầu dâng biểu đầu hàng” của Mạc Đăng Dung là hành động khiếp nhược, làm nhục quốc thể chứ không thể là hành động đáng kính trọng.

Bình Định Vương Lê Lợi sau khi đánh tan quân nhà Minh cũng chỉ sai sứ sang nhà Minh mang lễ vật hậu hỷ (có hai tượng người bằng vàng) để cầu hòa chứ ngài không đích thân đi; Quang Trung Nguyễn Huệ sau khi đánh tan 10 vạn quân Thanh xâm lược thì cử Phạm Công Trị đóng giả vua đem đồ cống phẩm và dâng biểu cầu phong vua Thanh. “Vua Càn Long tưởng là Quang Trung thật, vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ ôm gối như tình cha con một nhà. Đến lúc về nước lại sai thợ vẽ một bức ảnh truyền thần để ban cho… “. (VNSL trang 403). Những vị vua như vậy mới xứng đáng được dân tộc tôn thờ, còn Mạc Đăng Dung thì ngược lại, đáng bị nguyền rủa (22 tháng 8 Tân Sửu (1541) Mạc Đăng Dung chết thọ 59 tuổi)

TNTT cho rằng thời nhà Mạc, đặc biệt thời Mạc Thái Tổ (MĐDung) và Mạc Thái Tông (MĐDoanh) là thời thái bình thịnh trị là không chính xác vì khi MĐD cướp ngôi nhà Lê thì cựu thần nhà Lê hoặc bị thanh trừng, hoặc tuẩn tiết hoặc trốn ra nước ngoài (Ai Lao) để mưu việc phục quốc, nhiều cuộc khởi nghĩa của con cháu nhà Lê và các cựu thần nhà Lê đã diễn ra khắp nơi:

Kỷ Sửu (1529) (Mạc Minh Đức năm thứ 3) bề tôi cũ của nhà Lê là hai anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chạy sang tố cáo với nhà Minh. Do họ Mạc đem nhiều lễ đút lót cho nhà Minh, việc không thành, hai anh em đều chết ở bên Minh (TT trang 593 bản điện tử).

Năm Canh Dần (1530) con công chúa An Thái là Lê Ý khởi binh chống lại ở Châu Gia xưng niên hiệu là Quang Thiệu, nhân dân đều hưởng ứng (ĐVTS trang 41 bản điện tử), Đăng Dung bị thua nhiều trận, nhưng do Lê Ý chủ quan bị đánh úp nên bị bắt đem về Đông Kinh và bị giết.

An Thanh hầu Nguyễn Kim (con của Nguyễn Hoằng Dụ) bề tôi cũ của nhà Lê dẫn con em chạy sang Ai Lao nương nhờ chúa Sạ Đẩu, Sạ Đẩu đem nhân dân và đất Sầm Châu cấp cho Kim. Từ đó Nguyễn Kim nuôi dưỡng sĩ tốt, chiêu nạp những kẻ chạy trốn, làm phản, ngầm tìm con cháu nhà Lê lập nên để mưu khôi phục.

Xuân Tân Mão (1531) An Thanh Hầu Nguyễn Kim dẫn quân từ Ai Lao về Thanh Hoá, Đăng Dung sai binh đánh, bị thua to.

Xuân Quý Tỵ (1533) (ở TT trang 595 ghi tháng 12 Nhâm Thìn) các cựu thần nhà Lê dựng Lê Duy Ninh (con của Chiêu Tông) lên ngôi ở Ai Lao tức Lê Trang Tông, cho người sang nhà Minh kể tội Đăng Dung, xin nhà Minh đánh dẹp. Sợ nhà Minh sang hỏi tội, Đăng Dung mật sai người hối lộ, xin cắt đất nộp nhà Minh và từ bỏ đế hiệu.(như phần trên đã ghi)

Năm Canh Tý (1540) Nguyễn Kim đem quân về đánh Nghệ An. Năm Nhâm Dần (1542) Trang Tông cất quân đánh Thanh Hóa và Nghệ An, qua năm sau (1543) thì thu phục được đất Tây Đô, quan tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất ra hàng.

Lúc này đất nước chia đôi, gọi là thời Nam Bắc Triều: từ Thanh Hoa trở vào thuộc nhà Lê, làm Nam Triều, từ Sơn Nam trở ra thuộc họ Mạc, làm Bắc triều. Hai bên đem quân đánh lẫn nhau kéo dài nửa thế kỷ.

Còn việc “cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi. Ai vi phạm thì cho pháp ty bắt giữ ” đưa đến kết quả: “…Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên” (TT trang 595 bản điện tử).

Đây không phải là biện pháp giáo dục mà là biện pháp nghiêm cấm, răn đe vì sợ bạo loạn. Vì vậy tuy “trong cõi tạm yên” nhưng chỉ trong khoảng vài năm và bao trùm bầu không khí bất an khi người đi đường không thể tự vệ nếu bị tấn công hoặc khi gia súc sinh đẻ cũng không biết có phải là gia súc nhà mình, không ai dám mang về. Người được lợi ở đây là ai thiết nghĩ chúng ta đều biết…

Nhà Mạc có quan tâm đến việc thi cử và chọn nhân tài, nhưng những người có nghĩa khí như Nguyễn Bỉnh Khiêm dù đỗ trạng nguyên có ra làm quan nhưng cũng sớm cáo quan về trí sĩ ở làng Trung An tỉnh Hải Dương.

 II. Sự suy tàn của Triều đại nhà Mạc

Triều đại Mạc Phúc Hải (1541-1546): niên hiệu Quảng Hòa

Mạc Đăng Doanh làm vua được 10 năm thì mất (1530-1540), truyền ngôi lại cho con là Mạc Phúc Hải. Đến tháng 8 năm Tân Sửu (1541) Đăng Dung chết ở Cổ Trai,thọ 59 tuổi.Kể từ thời Mạc Phúc Hải trở đi nhà Mạc ngày một suy yếu, nhà Lê bắt đầu trung hưng. Năm 1543 vua Trang Tông thân chinh đánh Phúc Hải , thu phục được Tây Đô, đất nước chia đôi gọi là thời Nam Bắc Triều.

Phúc Hải không chăm lo việc nước nên Bắc triều ngày càng suy yếu, trong khi Nam triều được Nguyễn Kim, Trịnh Kiểm (rể của Nguyễn Kim) gíup đỡ và rất nhiều hào kiệt hưởng ứng ngày càng mạnh lên.

Năm Ất Tỵ (1545) Nguyễn Kim đem quân đánh Sơn Nam, đi đến huyện Yên Mộ bị Dương Chấp Nhất là hàng tướng nhà Mạc đánh thuốc độc chết, binh quyền giao lại cho Trịnh Kiểm. Nguyễn Uông, con trưởng của Nguyễn Kim bị Trịnh Kiểm giết, em là Nguyễn Hoàng sợ liên lụy, xin vào trấn ở Thuận Hóa.

Trịnh Kiểm rút về Thanh Hoa (Thanh Hóa), chiêu mộ những người hào kiệt, luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thảo để lo việc đánh nhà Mạc. Nhiều danh sĩ của Bắc triều đã vào giúp nhà Lê như Phùng Khắc Khoan (Trạng Bùng), Lương Hữu Khánh…(VNSL trang 296).

Năm Bính Ngọ (1546) Mạc Phúc Hải mất (làm vua được 6 năm), truyền ngôi lại cho con trưởng là Mạc Phúc Nguyên .

Triều đại Mạc Phúc Nguyên (1546-1561): niên hiệu Vĩnh Định

Phúc Nguyên còn nhỏ tuổi, bao nhiêu công việc lớn đều do chú ruột là Khiêm Vương Kính Điển quyết định. Tình hình Bắc Triều không mấy sáng sủa:

Nội bộ chia rẽ:

– Khi Phúc Hải chết, tướng Phạm Tử Nghi bàn nên lập vua lớn tuổi là Hoằng Vương Chính Trung (con trai thứ của Mạc Đăng Dung) nhưng các tôn vương nhà Mạc và Kính Điển không theo. Do đó Tử Nghi khởi loạn, chiếm cứ Ngự Thiên ở Hoa Dương, tiếm xưng tôn hiệu, ngụy lập triều đình. Phúc Nguyên cử Kính Điển và Nguyễn Kính phát binh đánh Tử Nghi, có Phụng quốc công Lê Bá Ly giúp sức mới đẩy lùi được. Tử Nghi rút về chiếm cứ An Quảng. Mạc Chánh Trung chạy sang Khâm Châu vào Lưỡng Quảng tố cáo tội trạng Nguyễn Kính chuyên quyền và xin cứu trợ. Vua Minh ra lệnh thu xếp cho Chánh Trung vào xứ Thanh Viễn và hàng năm phát gạo cho.

– Phụng quốc công Lê Bá Ly là vị tướng giỏi của Bắc triều đã dẹp tan được giặc Phạm Tử Nghi, uy thế lẫy lừng, con trai là Phổ quận công Khắc Thận, con rể là Văn Phái hầu Nguyễn Quyện, binh hùng tướng lực đều nằm trong tay. Giữa Lê Bá Ly và cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao có mâu thuẩn (vợ Phạm Quỳnh là vú sữa nuôi Kính Điển nên hai cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao được ân sủng chức quyền- theo ĐVTS trang 57). Phạm Quỳnh và Phạm Dao gièm pha với Kính Điển rằng con trai của Lê Bá Ly có ý phản nghịch, Kính Điển không tin thì hai người này đem ý trên gièm pha với Phúc Nguyên. Phúc Nguyên cho quân vây đánh Bá Ly. Bá Ly dẫn quân chiếm cửa quan Châu Tắc, yêu cầu xử tội Phạm Quỳnh, Phạm Dao. Phúc Nguyên không nghe lại bức bách Bá Ly. Bá Ly không còn lựa chọn nào khác, tháng 2 Tân Hợi (1551) cùng con là Phổ quận công Lê Khắc Thận đem quân về hàng vua Lê kèm theo bức họa địa hình tiến dâng (ĐVTS trang 59 bản điện tử), nhiều người tài giỏi cũng ùa theo như Đô quận công Nguyễn Thiến và con là Nguyễn Quyện, Nguyễn Phủ … Từ đó hào kiệt các nơi kéo đến hưởng ứng rất đông. (theo TT q.XVI trang 602)

Nhiều điềm xấu xuất hiện:

– XứHải Dương luôn bị nạn binh hỏa , rất nhiều người phải lưu vong. (ĐVTS trang 56)

– Mùa hạ 1547 tháp Báo Thiên không vì cớ gì tự nhiên đổ lở.

– Mùa hạ 1548 ở các phủ Nam Sách, Thượng hạ tầng,Lý Nhân, Khoái Châu, Trường An đương lúc ban ngày trời bỗng tối sầm, không gian liền nổi tiếng ầm ầm, mưa đá đổ xuống sầm sập, làm hư hại lúa ngoài đồng …người và súc vật bị thương rất nhiều…(ĐVTS trang 57).

Ở Nam Triều vua Trang Tông thăng hà, thái tử Huyên lên ngôi ở Thanh Hoa tức vua Trung Tông lấy niên hiệu Thuận Bình (1549). Vua Trung Tông chỉ ở ngôi được 8 năm thì mất, không có con, dòng dõi họ Lê cũng không còn ai, binh quyền đều ở trong tay Trịnh Kiểm. Tục truyền Trịnh Kiểm muốn xưng làm vua nhưng còn lưỡng lự nên cho người lẻn ra Hải Dương hỏi Nguyễn Bỉnh Khiêm tức trạng Trình xem như thế nào. Ông Nguyễn Bỉnh Khiêm không nói gì cả, chỉ ngoảnh lại bảo đầy tớ rằng “Năm nay mất mùa thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ”. Nói rồi lại sai đầy tớ ra bảo tiểu quét dọn chùa và đốt hương để ông ra chơi chùa, rồi bảo tiểu rằng “Giữ chùa thờ Phật thì được ăn oản”.

Sứ giả về kể lại, Trịnh Kiểm hiểu ý, cho người tìm con cháu nhà Lê và tìm được người cháu huyền tôn ông Lê Trừ (anh vua Thái Tổ) tên là Duy Bang, rước về lập lên làm vua tức vua Anh Tông. (VNSL trang297).

Lê Bá Ly sau khi đem con em họ hàng về Thanh Hoa quy thuận vua Lê, thăng đến chức “Khai phủ bình chương quân quốc trọng sự,chưởng triều đường chánh”, đến ngày 1 tháng 4 năm Đinh Tỵ (1557) qua đời, thọ 82 tuổi, được triều đình nhà Lê ban tờ chiếu tặng tước Nghĩa huân công, ban tên thụy là Trung Hựu.(ĐVTS trang 63)

Mùa thu tháng 7 năm Đinh Tỵ (1557) nhà Mạc sai Mạc Kính Điển (chú Mạc Phúc Nguyên) cầm quân đi đánh cướp ở Thanh Hoa, Phạm Quỳnh Phạm Dao đánh cướp ở Nghệ An nhưng thua nặng phải trở về.

Tháng 8 Thượng thư bộ Lại Thư quận công Nguyễn Thiến chết ở Thanh Hoa, con trai là Quyện và Miễn (TT ghi là Phủ) trốn về hàng Phúc Nguyên, được Phúc Nguyên phục chức và gả con gái tôn thất cho. (ĐVTS trang 63)

Tháng 9 Trịnh Kiểm đem 5 vạn quân thủy bộ ra miền giữa Sơn Nam đánh quân Mạc.

Năm Kỷ Mùi (1559) Trịnh Kiểm đem 6 vạn quân ra đánh mặt Bắc, lấy được những tỉnh Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên,Kinh Bắc, Lạng Sơn và các huyện ở mặt Hải Dương, tưởng sắp thành công, nhưng lại bị Mạc Kính Điển đem một đạo quân đi đường bộ vào đánh Thanh Hoa nguy cấp lắm, Trịnh Kiểm phải bỏ miền Bắc về giữ Tây Đô.

Hai bên cứ giữ nhau mãi: nhà Lê tuy đã trung hưng, nhưng giang sơn chưa thu lại được như cũ, nhà Mạc có làm vua thì cũng chỉ làm vua ở miền Bắc mà thôi. (VNSL trang 298)

Triều đại Mạc Mậu Hợp (1562-1592): niên hiệu Thuần Phúc

Năm Tân Dậu (1561) Mạc Phúc Nguyên mất, con là Mạc Mậu Hợp lên nối ngôi khi còn nhỏ (2 tuổi-Theo ĐVTS trang 68 bản điện tử), có thể xem đây là vị vua cuối đời Mạc.Lúc này chính trị nhà Mạc đã mục nát vì Mạc Mậu Hợp là vị vua trẻ tuổi, bất tài, ham mê tửu sắc và bạc đãi công thần.

Chiến tranh hai miền Nam Bắc vẫn tiếp diễn, khi thì Trịnh kiểm ra đánh Sơn Nam, khi thì Mạc Kính Điển vào đánh Thanh Hoa, không bên nào được hẳn.

Năm Canh Ngọ (1570) Trịnh Kiểm mất, giao binh quyền cho con là Trịnh Cối. Trịnh Cối bất tài, lại ham mê tửu sắc, tướng sĩ không mấy ai phục nên bị em là Trịnh Tùng đoạt quyền.

Khi hai anh em Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau thì Mạc Kính Điển đem hơn 10 vạn quân vào đánh Thanh Hoa, Trịnh Cối liệu thế chống không nổi bèn đem quân đầu hàng họ Mạc, được giữ quan tước như cũ.

Quân Mạc thừa thế tiến lên đến sông Mã, tràn qua Hà Trung rồi vây đánh An Trường (thuộc huyện Thụy Nguyên) là chỗ vua Lê đóng.Vua Anh Tông về Đông Sơn, phong Trịnh Tùng làm tả thừa tướng, tiết chế chư quân để chống giữ với quân Mạc. Trịnh Tùng sai các tướng giữ mọi nơi, Mạc Kính Điển đánh mãi không được, lâu ngày hết lương thực đành phải rút về Bắc. Vua phong cho Trịnh Tùng làm Thái úy Trưởng quốc công (TT ghi là Trưởng quận công) và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Lại sai ông Phùng Khắc Khoan đi chiêu tập các hoang dân ở Thanh Hoa về yên nghiệp làm ăn, chỉnh đốn việc chính trị. (VNSL trang 299)

Vua Anh Tông thấy Trịnh Tùng chuyên quyền rất lo. Lê Cập Đệ bàn với vua trừ họ Trịnh, nhưng Trịnh Tùng biết ý dùng mưu giết Lê Cập Đệ. Vua Anh Tông lo sợ, bèn cùng bốn hoàng tử chạy vào Nghệ An. Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại, cho người rước hoàng tử thứ năm là Duy Đàm ở làng Quảng Thi, huyện Thụy Nguyên về lập lên làm vua tức vua Thế Tông, rồi sai người đem binh đuổi theo vua Anh Tông, bắt được đưa về giết đi, nói rằng vua tự thắt cổ chết.

Trịnh Tùng thăng thưởng cho những người đồng đảng, rồi chia quân phòng giữ các nơi để chống nhau với quân Mạc. Từ năm Quý Dậu (1573) đến năm Quý Mùi (1583) Trịnh Tùng cứ giữ đất Thanh Hoa, Nghệ An, nhà Mạc nhiều lần đem quân đánh đều thất bại (VNSL trang 299-300).

Tháng 10 Canh Thìn (1580), Mạc Kính Điển mất (Kính Điển là ông chú của Mậu Hợp), đây là một tổn thất lớn cho Bắc triều vì Kính Điển là vị tướng có tài và đức độ, rất được quân sĩ kính trọng. Mậu Hợp đưa ông chú là Mạc Đôn Nhượng lên thay, đem quân vào đánh họ Lê, nhưng không được trận nào.

Dù nhà Mạc ngày càng suy yếu, Mạc Mậu Hợp vẫn tiếp tục con đường hoang dâm vô độ, bạc đãi công thần.

Đến năm Quý Mùi (1583) Trịnh Tùng thấy thế mình đã mạnh bèn cử binh mã ra đánh Sơn Nam lấy được thóc gạo đem về. Từ đó năm nào cũng ra đánh, bắt quân Mạc từ thế công chuyển sang thế thủ. Năm Tân Mão (1591) Trịnh Tùng quyết định cử đại binh (5 vạn quân) ra đánh Thăng Long.

Mạc Mậu Hợp cũng điều động hơn 10 vạn quân, sai Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo đi làm tả hữu dực, Mậu Hợp dẫn trung quân đến đối trận với quân Trịnh Tùng. Quân Trịnh đánh rất hăng, quân Mạc chống không nổi, chết đến hàng vạn người, Mạc Mậu Hợp bỏ chạy. Quân Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng Long. Nhưng vì sắp đến tết Nguyên Đán Trịnh Tùng đình chiến cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn tết.

Tháng giêng Nhâm Thìn (1592) Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất, đặt ra ba điều cấm quân sĩ không được làm điều phi pháp với dân rồi mang đại binh ra Bắc tấn công Thăng Long lần thứ hai. Áp lực quân Trịnh quá mạnh, các mặt trận đều tan vỡ, quân Mạc chết như rạ, Mạc Mậu Hợp phải bỏ Thăng Long, vượt sông Hồng chạy đến Thổ Khôi (thuộc huyện Gia Lâm-Hà Nội), các tướng như Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê…bỏ thành mà chạy, tướng Nguyễn Quyện bị bắt sống (về sau phải chết trong ngục cùng con là Nguyễn Tín).”Trong kinh thành xác chất chồng lên nhau. Tướng tá chết chừng vài chục, sĩ tốt chết đến hơn nghìn người, khí giới bỏ ngổn ngang cao như quả núi, lâu đài cung điện nhà cửa sạch không.” (ĐVTS bản điện tử trang 88).

Tuy thắng trận nhưng Trịnh Tùng cho kéo quân về nghỉ ngơi, chờ thời cơ vì biết quân Mạc vẫn còn viện binh các nơi khác.

Về phía Mạc Mậu Hợp, tuy thua trận nhưng vẫn không bỏ được thói háo sắc. Nguyễn Thị Niên là con gái của tướng Nguyễn Quyện, vợ của tướng Bùi Văn Khuê, chị của Thị Niên là hậu của Mậu Hợp. Thế mà Mậu Hợp lại muốn chiếm đoạt Thị Niên nên ngầm tính mưu kế giết Văn Khuê. Văn Khuê biết ý, dẫn quân về giữ hạt Gia Viễn, không theo mệnh lệnh của triều đình. Mậu Hợp mấy lần vời cũng không tới, bèn sai tướng đem quân đến hỏi tội Văn Khuê.

Tháng 10, Văn Khuê trưng binh chống giữ, sai con trai chạy đến yết kiến phủ Tiết chế tố cáo sự tình, xin đầu hàng và xin cứu viện. Tiết chế Trịnh Tùng rất vui mừng, lập tức tâu hoàng đế để xin khởi binh, sai Hoàng Đình Ái dẫn một đạo quân đi trước để cứu Văn Khuê.

Tướng của Mậu Hợp là Định quận công Trần Bách Niên cũng về hàng Nam triều, tiếp đến có hơn 10 tướng Nam đạo sang hàng nhà Lê.

Áp lực Nam quân quá mạnh, quân Mạc không chống cự nổi, các mặt trận đều tan vỡ. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy trốn về huyện Kim Thành (Hải Dương), tông thất và quân sĩ nhà Mạc lũ lượt kéo nhau ra hàng. Thái hậu họ Mạc bị bắt, buồn rầu mà chết.

Mậu Hợp dựng con trai là Toàn làm vua, rồi trốn về ẩn ở chùa Mô Khuê hạt Phượng Nhởn, cuối cùng cũng bị bắt đem về Thăng Long, bêu sống 3 ngày rồi chém đầu tại bãi cát Bồ Đề, gửi đầu về Thanh Hoa, đóng đinh vào hai mắt bêu ở chợ.

Con của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Chỉ nghe tin Mạc Mậu Hợp đã bị bắt, bèn tự lập làm vua đóng ở huyện Thanh Lâm chiêu mộ quân sĩ được sáu bảy vạn người, Mạc Toàn là con Mạc Mậu Hợp cũng theo về với Mạc Kính Chỉ (VNSL trang 303).

Trịnh Tùng thấy Kính Chỉ nổi lên, thanh thế to lắm, quan quân đánh mãi không được, bèn đem quân sang đánh ở huyện Cẩm Giang và huyện Thanh Lâm, bắt được Kính Chỉ và con cháu họ Mạc cả thảy hơn 60 người.

Trịnh Tùng về Thăng Long, sai quan vào rước vua Thế Tông ra Đông Đô, mở triều và thăng thưởng cho các tướng sĩ.

Năm sau tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn tìm được con của Mạc Kính Điển là Mạc Kính Cung lập nên làm vua, chiếm giữ châu Yên Bác ở Lạng Sơn, nhưng một thời gian ngắn thì bị quân của Hoàng Đình Ái đánh dẹp phải chạy sang Long Châu cầu cứu nhà Minh.

Tuy nhờ nhà Minh bênh vực, Mạc Kính Cung chỉ giữ được mảnh đất nhỏ bé ở Cao Bằng.

Triều đại nhà Mạc tồn tại 65 năm (1527-1592) và bị xem là ngụy triều trong lịch sử Việt Nam.

2/2016

Đính kèm

Tranh Luận xung quanh việc đặt tên phố Mạc Thái Tổ và Mạc Thái Tông- Thanh Hằng

– Viết tiếp “Cấm phóng uế vào lịch sử” -Tôn Nữ Tịnh Tâm (TNTT)

“Cấm phóng uế vào lịch sử” – Hoàng Thiếu Phủ

Tài liệu tham khảo:
– Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (viết tắt: TT)
– Đại Việt Thông Sử (viết tắt ĐVTS)
– Việt Nam Sử Lược (viết tắt VNSL)