“Thiên” là trời, “địa” là đất thì ai cũng hiểu. Nhưng còn “la” và “võng” thì sao? Liệu có thể đảo thành “thiên võng địa la” được không? Và “võng” ở đây có phải là cái võng dùng để ru con nít?

Thiên la địa võng là gì

Thực chất, câu này là một câu xuất xứ từ Trung Hoa, viết theo Hán tự là 天羅地網. Theo “Thành ngữ và điển tích trong thi văn Việt Nam” của Quách Văn Hoà trang 445 thì “la” (羅) vốn để chỉ cái lưới đánh chim, còn “võng” (網) là lưới bẫy thú. Hay còn gọi là  lưới giăng trên trời và bẫy dưới đất, tương ứng với chim và thú. Nếu đảo ngược lại thành “thiên võng địa la” sẽ không phù hợp.

Nói về “la” (羅), theo nhiều tài liệu thì đây cũng chính là chữ “là” trong “lụa là” dùng để chỉ một loại vải dệt bằng tơ mỏng, mặc mát. Còn “võng” (網) sau này biến nghĩa thành cái võng để ru con nít. Chữ “võng” (網) này còn có một biến âm khác là “màng” như trong “màng nhện”. “màng nhĩ” mà chúng tôi đã nhắc đến trong bài “bốn chữ màng”

Từ “thiên la địa võng” có nghĩa đen là “lưới trời lưới đất”. Từ này được dân gian sử dụng để miêu tả những trận chiến giữa các thế lực. Khi hai bên chống chọi nhau. Lịch sử của dân tộc ta là lịch sử chống lại ngoại xâm. Quân đội Việt Nam từ thời cổ đại đã thể hiện tinh thần mưu trí, dũng cảm, quyết chiến và quyết thắng. Và đã nhiều lần đánh bại kẻ địch. Khiến chúng “vướng trap trong lưới bủa vây trên trời và dưới đất”.

Trong “Truyện viết cho thiếu nhi”, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đã sử dụng cụm từ này để miêu tả trận chiến giữa quân ta và quân Minh. Khi viết: “Không có lối lên Thăng Long. Không có đường ra biển, bốn bề đều là thiên la địa võng. Toa Đô ơi, mày sẽ chạy đi đâu?”.

(Minh Nhân)