Chúng ta chẳng còn xa lạ gì với trái khổ qua mà ở miền Bắc gọi là “mướp đắng”. Ở nhiều nơi, người ta đọc trại thành “ô qua” hay “đỗ qua”, nhưng chắc chắn tên gốc là “khổ qua”. Vì sao nói vậy?

Dễ dàng tìm hiểu được, “Khổ qua” là một từ Việt gốc Hán. Trong đó, “khổ” (苦) tự dạng gồm bộ thảo ở trên, chữ cổ ở dưới, nghĩa gốc là “đắng, vị đắng”, rồi phái sinh nghĩa ẩn dụ “cảnh cực nhọc, vất vả”. “Khổ” trong “nghèo khổ”, “khổ cực”, “đau khổ”, “khổ sở”, “khổ tâm”… trong tiếng Việt đều từ chữ “khổ” này mà ra. Ta lại có thành ngữ “khổ tận cam lai”, nghĩa gốc là “đắng hết thì ngọt đến”, nghĩa chuyển là “hết lúc cực nhọc sẽ đến lúc sướng vui”.

Khổ qua có nhiều công dụng tốt cho sức khỏe

“Qua” (瓜) trong tiếng Hán vừa là bộ thủ vừa là chữ, có nghĩa là “dưa, các thứ dưa có quả đều là qua” (Thiều Chửu, Hán Việt tự điển, tái bản lần 5, Thiều Chửu, Nxb Thanh Niên, 2010, tr.482). Trong tiếng Hán, có nhiều loại quả mà tên gọi đều có chung một chữ “qua” này. Chẳng hạn, “tây qua” là dưa hấu (còn được gọi là “dưa hồng”), “nam qua” là “bí đỏ” (miền Bắc gọi “bí ngô”), “mộc qua” là “đu đủ”, “đông qua” là “bí đao”, “ty qua” là “mướp”,“hoàng qua” là “dưa chuột”, “phật thủ qua” là “su su”,…

Nói về dưa mướp, ta có điển tích “qua điền lý hạ”. Điển này được rút gọn từ câu thơ “qua điền bất nạp lý/ lý hạ bất chính quan” trong bài Quân tử hành của Tào Thực, có nghĩa “đừng sửa dép ở ruộng dưa, chớ sửa mũ dưới cây mận” (vì nếu làm như vậy sẽ dễ khiến người khác nghi ngờ, thậm chí vu cho mình trộm dưa, mận). Điển này khuyên người ta cần thận trọng trong những hoàn cảnh nhạy cảm để tránh bị hiềm nghi, mang vạ. Truyện thơ Quam m Thị Kính có hai câu: “Ngán thay sửa dép ruộng dưa/ Dẫu cho ngay chết cũng ngờ rằng gian” là lấy ý từ điển tích này.

Phạm Tuấn Vũ