Ta thường gọi các khoản tiền có được từ các hoạt động môi giới, trung gian là “tiền hoa hồng”. Vì sao lại gọi như vậy? Có phải vì những món lợi ấy cũng ”ngọt ngào” như hoa hồng hay không?

Thực tế, có thể thấy cách dùng này bắt nguồn từ tiếng Hán. “Hoa hồng” vốn có Hán tự là 花紅, với “hoa” (花) là “bông hoa” và “hồng” (紅) là “màu đỏ”. 花紅 được Từ điển tiếng Trung Baidu giảng là: “1. Tên một loại cây… 4. Tiền thưởng, tiền khích lệ. 5. Tiền thưởng trong các lệnh truy nã hay thông báo tìm người mất tích…”. Rõ ràng, việc dùng “hoa hồng” với nghĩa “tiền” đã có từ tiếng Trung, sau mới ảnh hưởng sang tiếng Việt.

Điều đáng chú ý là 花紅 trong tiếng Trung được dùng để chỉ một loại cây có tên khoa học là Malus Asiatica (không có tên tiếng Việt). Đây là một loại cây thuộc chi hải đường, họ hoa hồng. Mang tiếng là họ hoa hồng nhưng hoa của cây này khác biệt hoàn toàn với hình ảnh hoa hồng mà chúng ta thường biết đến.

Theo lời kể của một số người Trung Hoa thì ngày xưa người ta thường dùng (hoa hoặc quả?) loài cây này làm quà cưới, vì nó có màu đỏ (hồng, 紅) tượng trưng cho may mắn, hạnh phúc theo quan điểm của họ. Đó cũng chính là nguyên nhân mà về sau 花紅 được mở rộng nghĩa thành “tiền thưởng”, sang tiếng Việt thành tiền trả công cho môi giới. Một ý kiến khác cho rằng “hoa” (花) còn có nghĩa là “gửi”, và “hoa hồng” (花紅 ) được hiểu thuần là “gửi màu đỏ”, hay “gửi may mắn”, do đó dùng để chỉ tiền thưởng. Tuy nhiên thuyết này không có cơ sở vì chúng tôi không tìm thấy tư liệu nào ghi nhận “hoa” (花) với nghĩa là “gửi” cả, nghĩa động từ của “hoa” nếu có thì chỉ là “tiêu phí” mà thôi.

Cũng nói thêm là các từ điển tiếng Việt xưa chỉ ghi nhận “hoa hồng” với nghĩa “tiền môi giới” chứ không ghi nhận như tên một loài hoa. Thật vậy, Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức giảng: “Hoa hồng: Tiền cho người đứng mối lái trong việc buôn bán”. Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức cũng giải thích: “Hoa hồng: Tiền bách phân (phần trăm) chịu cho người đứng giữa trong việc mua bán”. Cả hai tư liệu đều không ghi nhận “hoa hồng” như một loài hoa, chứng tỏ nghĩa này về sau mới xuất hiện.

Tóm lại, “hoa hồng” vốn là tên một loại cây thuộc họ hải đường, xưa thường được người Trung dùng làm quà cưới vì mang màu đỏ, tượng trưng cho may mắn, hạnh phúc. Từ đó, người ta mở rộng ra, dùng “hoa hồng” để chỉ tiền thưởng. Nghĩa này ảnh hưởng lên tiếng Việt nên người Việt bắt đầu dùng “hoa hồng” để chỉ phí môi giới, sau hẳn do thấy “hoa” là bông hoa và “hồng” là màu đỏ nên đã đem từ này đặt cho tên một loài cây khác.