“Hậu sinh khả úy” là một câu thành ngữ dùng để chỉ tài năng của lớp trẻ, cho rằng họ đáng được tôn trọng, vì họ thông minh, dễ thích nghi, biết cầu tiến, siêng năng, tương lai sáng sủa. Từ “Hậu sinh” ở đây là chỉ lớp người trẻ, thanh thiếu niên. Còn chữ “Úy” có nghĩa là kính phục. Câu nói này xuất phát từ kinh điển Nho gia, là câu của Khổng Tử, tuy nhiên lại bị cắt mất một vế…

Hậu sinh khả úy phiên âm từ tiếng Hán 后生可畏 (hou sheng ke wei) là thành ngữ bắt nguồn từ câu nói của Khổng Tử ( 孔子)(1) được viết trong thiên thứ 9 Tử Hãn (子罕) của sách Luận ngữ (論語) – một quyển sách do Khổng Tử và các đệ tử của mình biên soạn(2).

Nguyên văn của câu này như sau: “Tử nói: Hậu sinh khả úy, yên tri lai giả chi bất như kim dã? Tứ thập, ngữ thập nhi vô văn yên, tư diệt bất túc úy dã dĩ” (子曰: 后生可畏,焉知來者之不如今也?四十、五十而無聞焉,斯亦不足畏也已 – Dịch nghĩa: “Khổng Tử nói: Những người sinh sau rất đáng sợ, nhưng biết đâu tương lai của họ không bằng hiện nay? Nếu họ đến bốn chục, năm chục tuổi mà chưa có tiếng tăm gì thì không phải sợ họ nữa”).

Hậu sinh khả úy, đáng trọng nhưng không đáng sợ - Trí Thức VN

Trong Hán Việt từ điển giản yếu của Đào Duy Anh, từ hậu sinh (后生) được giảng như sau: “Người sinh sau – Người trẻ tuổi (postérité, jeunes gens)”. Còn từ úy (畏) được giảng là “Sợ – Lòng phục theo“. Hậu sinh khả úy có nghĩa là giới trẻ, lớp người sinh sau thật đáng tôn kính và sợ hãi; ám chỉ giới trẻ có thể vượt qua được thế hệ trước.   Câu nói hậu sinh khả úy bắt nguồn từ giai thoại kể về cuộc đối thoại thú vị giữa Khổng Tử và Hạng Thác – một thần đồng mới 7 tuổi. Giai thoại này lại có hai phiên bản khác nhau, cụ thể như sau:

Phiên bản câu chuyện thứ nhất:

Tương truyền Khổng Tử đang trên đường cùng các học trò chu du khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng của mình và tìm người dùng các tư tưởng đó(3) thì gặp ba đứa trẻ, trong đó hai đứa đùa nghịch với nhau rất thỏa thích, còn đứa kia chỉ lặng im đứng xem. Khổng Tử thấy lạ mới hỏi tại sao lại không cùng chơi với các bạn. Đứa trẻ tên là Hạng Thác điềm nhiên nói: ” Đánh vật nhau quyết liệt rất dễ phương hại đến sinh mạng con người, còn cứ lôi kéo xô đẩy nhau thì rất dễ bị thương, dù chỉ kéo rách áo quần thôi, thì cũng chẳng có lợi gì cho cả hai bên, nên cháu không muốn chơi với chúng nó”.

Một lúc sau, Hạng Thác dùng đất đắp thành một ngôi thành lũy ngay giữa đường, rồi vào ngồi trong đó. Xe Khổng Tử không thể đi được mới hỏi tại sao lại không nhường lối cho xe đi. Hạng Thác đáp: “Cháu nghe người ta nói xe phải vòng qua thành mà đi, chứ làm gì có thành lũy lại nhường lối cho xe đi bao giờ”.

Khổng Tử nghe vậy rất kinh ngạc, cảm thấy đứa trẻ này người tuy còn nhỏ nhưng rất ranh mãnh, mới nói rằng: “Cháu tuy nhỏ mà hiểu biết thật không ít”.

Hạng Thác đáp rằng: “Cháu nghe nói, cá con sinh ra được ba ngày đã biết bơi, thỏ con sinh ra được ba ngày đã biết chạy, ngựa con sinh ra được ba ngày đã biết đi theo mẹ, đây là việc rất bình thường chứ có gì lạ đâu”.

Khổng Tử thấy rất thích thú với cậu bé này, và quyết định thử tài cậu ta bằng một vài câu hỏi:

Lửa nào không khói? Nước nào không có cá?
Núi nào không đá? Cây gì không cành?
Người nào không vợ? Ai kẻ không chồng?
Trâu nào không nghé? Ngựa nào không con?
Trống nào không mái? Mái nào không trống?
Ai là quân tử? Ai kẻ tiểu nhân?
Vật gì không đủ? Vật gì có thừa?
Thành nào không chợ? Người nào không con?

Cậu bé Hạng Thác liền đáp :

Lửa đom đóm không khói. Nước giếng không có cá
Núi đất không đá. Cây khô không cành.
Tiên ông không vợ. Ngọc nữ không chồng
Trâu đất không nghé. Ngựa gỗ không con.
Trống độc không mái. Mái độc không trống.
Hiền là quân tử. Kẻ dại tiểu nhân.
Ngày Đông không đủ. Ngày Hạ có thừa.
Hoàng thành không chợ. Đứa trẻ không con.

Khổng Tử hỏi 40 câu và nhận được 40 câu trả lời rất chính xác.

Khổng Tử sau đó mời Hạng Thác chơi trò đánh cờ với ông: “Trong xe ta có sẵn 32 con cờ, ta muốn cùng cậu đánh cờ, cậu có bằng lòng không?”.

Hạng Thác đáp: “Thiên tử mê cờ thì bốn biển không người gìn giữ, chư Hầu mê cờ thì chính sự không an, nho sĩ mê cờ thì việc học đình trệ, nông phu mê cờ thì quên việc cày cấy, vì thế cháu không đánh cờ”.

Khổng Tử lại hỏi: “Ta muốn cùng cậu đàm luận việc bình trị thiên hạ, cậu có bằng lòng không?”.

Hạng Thác lại trả lời: “Chuyện thiên hạ khỏi phải bình, vì hoặc như núi cao, hoặc như sông hồ, hoặc như vương hầu, hoặc như nô tỳ. Nếu san bằng núi thì chim chóc không nơi trú ngụ, lấp bằng sông hồ thì cá nhờ đâu bơi lội, bỏ chức vương hầu thì dân không người trị, bỏ nô tỳ thì chủ nhân không có người để sai khiến, thế nên cháu không bình luận việc thiên hạ”.

Đến lượt Hạng Thác hỏi Khổng Tử: “Trên bầu Trời có sao lấp lánh, vậy thưa Ngài có tất cả bao nhiêu vì sao?”.

Khổng Tử nói: “Chuyện dưới đất không thiếu gì sao lại hỏi chuyện trên Trời”.

Hạng Thác lại hỏi: “Vậy dưới đất nhà cửa san sát có bao nhiêu ngôi nhà?”.

Khổng Tử lại nói rằng : “Ta nên nói ngay chuyện trước mắt có phải là thực tế hơn không, cần gì nói chuyện Trời Đất”.

Hạng Thác liền thưa: “Vậy thưa Ngài nếu bàn chuyện trước mắt thì Ngài cho biết lông mày có bao nhiêu sợi?”.

Khổng Tử không trả lời, chỉ biết cười mà thôi. Đoạn Khổng Tử quay sang nói với các học trò: “Hậu sinh khả úy, lớp trẻ thời nay thật là ghê gớm“.

Phiên bản câu chuyện thứ hai

Một lần, Khổng Tử ngồi trên chiếc xe nhỏ có ngựa kéo chu du khắp các nước. Đến một vùng nọ thấy có chú bé lấy đất đắp một tòa thành, rồi ngồi vào trong đó.

Khổng Tử liền hỏi: “Này cháu, cháu trông thấy xe ta đi tới cớ sao không chịu tránh?

Chú bé trả lời: “Cháu nghe người ta đồn rằng, Khổng Phu Tử trên thông Thiên Văn, dưới tường Địa Lý, giữa hiểu lòng người. Vậy mà hôm nay cháu gặp Phu Tử thì không phải vậy. Bởi vì từ xưa đến nay, chỉ nghe nói đến chuyện xe tránh thành, chứ thành nào lại tránh xe đâu?

Khổng Tử ngạc nhiên quá, liền hỏi: “Cháu tên là gì?”

Chú bé trả lời: “Dạ, Hạng Thác

Khổng Tử: “Năm nay cháu bao nhiêu tuổi?

Hạng Thác: “Dạ, 7 tuổi ạ

Khổng Tử: “Mới 7 tuổi đã khôn ngoan vậy sao?

Hạng Thác: “Dạ thưa, cháu nghe nói, con cá nở được 3 ngày đã bơi tung tăng từ hồ nọ sang hồ kia. Con thỏ 6 ngày tuổi đã chạy khắp đồng cỏ. Cháu sinh ra đến nay đã được 7 tuổi, lấy gì làm khôn?

Lần này thì Khổng Tử thực sự kinh ngạc, bèn đưa ra liền 16 câu hỏi khó để thử tài Hạng Thác. Thế nhưng  Hạng Thác đã trả lời trôi chảy, rồi nói: “Vừa nãy Khổng Phu Tử hỏi cháu nhiều quá. Bây giờ, cháu xin hỏi Phu Tử: Tại sao con ngỗng và con vịt nổi trên mặt nước? Tại sao chim hồng, chim hộc lại kêu to? Tại sao cây tùng, cây bách lại xanh cả mùa hè lẫn mùa đông?

Khổng Tử đáp: “Con ngỗng, con vịt nổi được trên mặt nước là nhờ hai bàn chân vuông làm phương tiện. Chim hồng, chim hộc kêu to, là vì cổ chúng dài. Tùng bách xanh tươi bốn mùa là vì thân chúng đặc”.

Hạng Thác reo lên: “Thưa, không đúng!  Con rùa nổi lên mặt nước, đâu có pahỉ nhờ đôi bàn chân vuông làm bàn đạp. Con ễnh ương kêu to mà cổ nó đâu có dài. Cây trúc cũng xanh bốn mùa, mà ruột nó rỗng đấy thôi.

Khổng Tử chưa biết giải thích ra sao thì Hạng Thác lại hỏi: “Thưa Phu Tử, cho phép cháu hỏi thêm. Tại sao mặt trời buổi sáng lại to mà buổi trưa lại nhỏ?

Khổng Tử: “Là vì buổi sáng mặt trời gần ta hơn”.

Hạng Thác: “Không phải ạ. Buổi sáng mặt trời gần ta hơn sao lại mát, còn buổi trưa mặt trời xa ta hơn sao lại nóng?”

Rồi Hạng Thác lý sự một hồi, khiến Khổng Tử phải thốt lên: “Cháu còn ít tuổi mà lại thích hỏi những chuyện xa xôi, viễn vông ở tận đẩu tận đâu, chuyện trước mắt thì không hỏi.

Hạng Thác cười khanh khách nói: “Vâng, cháu xin hỏi chuyện ngay trước mắt ngài: Vậy lông mày của Phu Tử có bao nhiêu sợi ạ?”

Khổng Tử không đáp, sai người đánh xe đi và than rằng: “Hậu sinh khả úy!” (Lớp hậu sinh thật đáng sợ!).

Rất tiếc Hạng Thác tài năng mà đoản mệnh. Năm lên 10 tuổi, Hạng Thác qua đời, được lập đền thờ, gọi là Tiểu Nhi Thần, nghĩa là Thần Nhi Đồng, gọi tắt là thần đồng. Chữ Thần Đồng cũng có từ ngày đó.

Hiện nay, người ta còn “chế” câu này thành câu “hậu sinh khả ố” với ý nghĩa trái ngược hoàn toàn. Theo đó,  ở đây có nghĩa là xấu hổHậu sinh khả ố nghĩa là thế hệ sau thật đáng xấu hổ, ý nói chê bai thế hệ sau không bằng thế hệ trước. Có một số người không hiểu ý nghĩa của từ “ố”, khi nghe có ai châm biếm bảo mình là “hậu sinh khả ố” lại lấy làm tự hào!

Trải qua thời gian hàng nghìn năm tiếp theo, ngôn ngữ thay đổi khiến cho chữ viết và văn tự nguyên gốc không còn dễ dàng hiểu được nữa, diễn giải kinh sách càng ngày càng sai lệch. Thêm vào đó, rất nhiều người trong tôn giáo đã trộn lẫn các kiến thức mà mình có với kinh sách, hoặc thêm bớt, cắt xén, khiến cho những lời giảng thời xưa không còn nguyên ý nghĩa.

Hiện tượng này tới thời cận đại và hiện đại lại càng rõ ràng hơn. Với riêng Nho gia mà nói, kinh điển đã qua cải tổ mấy lần cuối cùng cũng định hình lại, cơ bản là được giữ gìn trong một khoảng thời gian khá dài suốt cận đại và hiện đại. Tuy nhiên bởi vì cách diễn giải không được “hấp dẫn”, thậm chí có phần khó hiểu, nên người ta thường thích cắt gọt, thêm thắt, sáng tạo ra những câu chuyện bóng bẩy để làm cho mọi người dễ hiểu hơn.


Tham khảo và trích dẫn

• Luận ngữ (Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu)
• Đào Duy Anh – Hán Việt từ điển giản yếu – NXB Văn hóa thông tin, 2005


Chú thích

(1) Khổng Tử (孔子) tên thật là Khổng Khâu, tự Trọng Ni, còn gọi là Khổng Phu Tử 孔夫子, sinh năm 551 Tr.CN, mất năm 479 Tr.CN. Ông là một nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà giáo dục, nhà chính trị, nhà biên khảo nổi tiếng của Trung Quốc. Các bài giảng và triết lý của ông có ảnh hưởng sâu rộng đối với đời sống và tư tưởng của các dân tộc Đông Á. Người Trung Hoa đời sau đã tôn xưng ông là Vạn thế Sư biểu (Bậc thầy của muôn đời). Hiện có hàng trăm Học viện Khổng Tử trên khắp thế giới.

(2) Bộ Luận ngữ do Khổng Tử (孔子) và các đệ tử của mình biên soạn, được xem là sách đứng đầu trong Thư Thư – tức bốn tác phẩm kinh điển của Nho học Trung Hoa, gồm Đại Học (大學), Trung Dung (中庸), Luận Ngữ (論語 ) và Mạnh Tử (孟子). Luận ngữ được viết từ đời Tiền Hán tới đời Hậu Hán và là một chủ đề học vấn chủ yếu khi thi khoa cử của các triều đình Trung Hoa trước kia.

(3) Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, mong thuyết phục các vua chư Hầu chịu đem Đạo của ông ra ứng dụng để đem lại thái bình cho dân chúng. Nhưng Đạo của Khổng Tử là Vương Đạo (đạo trị quốc) nên đi ngược ý đồ Bá Đạo (đạo chinh phạt) của các vua chư hầu và quyền lợi của các quan Đại phu nên các vua chư hầu đều không dám dùng ông.

Cách vận dụng câu thành ngữ 

小小年纪竟然创造出这样的奇迹,真是后生可畏啊!
Xiǎo xiǎo nián jì jìngrán chuàngzào chū zhèyàng de qíjī,zhēn shì hòu shēng kě wèi!
Tuổi tác nhỏ như vậy mà đã làm nên kì tích như thế này, đúng thật là hậu sinh khả úy.

经理拍着小王的肩膀说 “后生可畏,你的成绩比我做业务员的时候还好,继续努力吧!”
Jīnglǐ pāizhe xiǎo wáng de jiānbǎng shuō “hòushēngkěwèi, nǐ de chéngjī bǐ wǒ zuò yèwù yuán de shíhòu hái hǎo, jìxù nǔlì ba!”
Giám đốc vỗ vỗ vai Tiểu Vương nói: “Hậu sinh khả úy, thành tích của cậu còn tốt hơn tôi lúc còn là nghiệp vụ viên đấy, tiếp tục cố gắng nhé!”