Vô vi là gì?

Từ “vô vi” có nguồn gốc từ tư tưởng của Lão Tử – một nhân vật quan trọng trong triết học cổ đại Trung Quốc. Về ý nghĩa, “vô vi” có nghĩa là không làm gì mà không gì không làm. Ý muốn khuyên con người cứ nghe theo lẽ trời. Tự nhiên ắt có sự vận hành của riêng mình.

Vô vi là gì?

Vô vi là gì?

Triết lý “vô” – “hữu”, “có” – “không” biểu hiện trong hành động của con người là “Vô vi nhi vô bất vi”. Đó là điều cuối cùng Lão Tử muốn vạch ra trong toàn bộ tác phẩm của mình. Ở đây, Lão Tử không có ý bảo “vô vi” chỉ là “vô vi”, ông nói rõ “vô vi” mà vẫn “hữu vi” và là làm theo tự nhiên. Vì chỉ có theo quy luật tự nhiên thì hoạt động mới có hiệu quả. Trong Đạo đức kinh, “Vô vi nhi vô bất vi” là tư tưởng khó hiểu nhất. Nhưng cũng sâu sắc nhất xuyên suốt nội dung tác phẩm.

Lão Tử người nước Sở (nay thuộc tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Họ Lý, tên Nhĩ, húy là Đam, là quan chấp sử vương kiêm trông coi thư khố nhà Chu. Do học cao, biết rộng. Lại phải chứng kiến những cảnh trái ngang trong giai đoạn suy tàn của Thiên tử nhà Chu nên Lão Đam lặng lẽ cáo quan ở ẩn.

Khi qua cửa Tây thành Hàm Cốc gặp Doãn Hỷ. Vị quan coi cổng này đã xin Lão Đam để lại đôi lời vàng ngọc. Lý tiên sinh không nỡ phụ lòng đã dừng chân viết hai thiên sách bàn về Đạo (37 chương) và Đức (44 chương) rồi lẳng lặng cưỡi trâu ra đi. Cuốn sách dài 81 chương gần 5.000 chữ được lịch sử gọi là “Đạo Đức Kinh” hoặc “Lão Tử ngũ Thiên văn”.

Người đời sau không biết Lão Tử đi đâu về đâu. Nhưng cuốn Đạo Đức Kinh của ông để lại đã chứng minh ông là nhà tư tưởng vĩ đại. Nhà Triết học thiên tài của thế giới cổ đại. Học thuyết vô vi là hạt nhân của hệ tư tưởng Lão Tử trong đó bao hàm hai quan điểm :

– Thiên đạo vô vi quan (Đạo pháp tự nhiên) và

– Nhân đạo vô vi quan (Đạo xử thế ở đời).

1. Quan điểm “Đạo pháp tự nhiên”

Là tinh tuý nhất trong tư tưởng triết học của Lão Tử. Là một vũ trụ quan khoa học, tiến bộ, kiệt xuất khác thườg. Nó khuyên con người phải tuân theo và nương theo những qui luật tự nhiên. Không nên làm ngược lại theo ý chủ quan.

Trước Lão Tử, các nhà tư tưởng trong “Bách gia Chư tử” quan niệm: Đạo chỉ là nhân đạo, đạo lý làm người. Đến Lão Tử, Đạo được hiểu theo nghĩa rộng nhất của khái niệm Triết học. Thông qua Đạo có thể hiểu được quá trình hình thành và phát triển của thế giới.

Trong khái niệm Đạo của Lão Tử bao gồm khái niệm vật chất cùng các thuộc tính của nó là vận động. Không gian, thời gian, sự thống nhất của các mặt đối lập …

Lão Tử cho rằng Đạo là thiên đạo, là bản thể của vũ trụ. Là nguồn gốc sinh ra trời đất, vạn vật, là đường lối muôn vật noi theo. Đạo tồn tại độc lập, bất biến, đạo là vật chất chứ không phải là tinh thần. Là tổng thể những qui luật chi phối sự sinh thành, biến hoá của vũ trụ.

Đặc tính của Đạo là: Vô cùng, vô tận, không bao giờ hết, tồn tại khách quan, thuận với tự nhiên, không can thiệp. Chế ngự tự nhiên, luôn luôn vận động, vĩnh cửu, lâu dài, phổ biến trong mọi vật, có khả năng chuyển hoá. Quay trở lại trạng thái ban đầu và hết sức huyền diệu.

Theo Lão Đam: Đạo mà có thể diễn tả được bằng lời thì không phải là cái Đạo Vĩnh Cửu, bất biến. Tên mà có thể gọi ra được thì không phải là tên Vĩnh Cửu. Thường hằng. Cái Đạo trường tồn bất biến ấy thật quả nó ở ngoài vòng ngôn ngữ. Nhạt không có mùi, nhìn không thể thấy, nghe không thể rõ dùng không thể hết. Đạo là một cái gì lúc ẩn lúc hiện. Dù mập mờ thấp thoáng mà ở trong vẫn có hình tượng. Vẫn có vật chất, dù sâu thăm thẳm, tối như bưng mà ở trong vẫn có tinh tuý.

Nếu tìm hiểu học thuyết vô vi của Lão Tử một cách toàn diện chúng ta càng thấy. Ông là một người xuất chúng. Mặc cho Khổng Tử thừa nhận Trời là đấng tối cao. sinh ra muôn vật. Mạnh Tử cũng khẳng định điều đó. Mặc tử coi là tất nhiên, không phải bàn luận.

Ngược lại, Lão Tử phủ định vai trò tối cao của Trời. Không thừa nhận trời sinh ra muôn loài. Ông nói: Có một vật trộn lộn mà thành sinh ra trước trời đất. Ta không biết tên nó là gì, nên mới cho tên riêng là Đạo.

Như vậy, có thể hiểu là: Đạo là cái đầu tiên, cái có trước, trước cả trời – đất và muôn loài. Đạo là khởi nguồn của vũ trụ, không có đồng loại, không có gì sánh được. Đạo tồn tại độc lập tuyệt đối, không có gì chi phối được

Nhiều năm trước đây, khi nguồn tư liệu còn hạn chế. Người ta thường xếp tư tưởng triết học của ông vào trường phái duy tâm khách quan. Nhưng nếu xem xét kỹ cả hệ thống tư tưởng của Lão Tử. Không thể không thừa nhận ông là nhà triết học duy vật. Bởi vì trong học thuyết của ông chỉ rõ:

Đạo có trước Trời, Đất; trong Đạo có vật chất. Đạo chính là vật chất. Là nguyên tố sinh ra vạn vật.

Đạo là sự vận động và chuyển hoá lẫn nhau của vật chất

Đạo là qui luật hình thành vạn vật.

Ở thời thượng cổ, khi chưa có thuyết tiến hoá và phép biện chứng duy vật. Lão Tử đã nêu ra lý thuyết: Đạo sinh ra Một, Một sinh ra Hai, Hai sinh ra Ba, Ba sinh ra vạn vật. Vạn vật đều cõng âm và ôm dương trong quá trình phát triển. Ông còn nhấn mạnh: Đạo vừa là không (Vô), vừa là có (Hữu). Không và có là hai trạng thái trong hai giai đoạn của Đạo. Khi Đạo ở trạng thái vô thanh vô sắc, vô hình vô tướng thì là không. Khi Đạo sinh thành Trời đất vạn vật thì là có.

Lão Đam đã kết hợp khéo léo giữa Chu dịch . và tư duy logic để chỉ ra qui luật tiến hoá của tự nhiên. Đó là: Từ thấp, đến cao, từ ít đến nhiều, từ đơn giản đến phức tạp. Cái này là tiền đề phát triển của cái kia, âm – dương là hai mặt đối lập nhưng không thể tách rời trong lòng mỗi sự vật. Triết lý đó được khẳng định là đúng đắn ở thời cận đại.

2. Quan điểm Nhân đạo vô vi quan

Lão Tử là người sáng lập, người thầy, là bút danh tiêu biểu cho Đạo gia học phái ở Trung Hoa thời cổ- trung đại. Học thuyết của Ông được phát triển mạnh mẽ vào thời Chiến quốc (475-221 Tr.CN). Đó là thời kỳ đại loạn trong lịch sử Trung Quốc. Nhân lúc Nhà Chu suy yếu. Các nước chư hầu nổi lên dùng mọi thủ đoạn. Mánh khoé để tranh Bá đồ vương làm cho nhân dân điêu đứng, đau khổ vô cùng.

Lão Tử là một đại trí thức. Một người ưu thời mẫn thế, lập nên học thuyết vô vi mong cứu vãn thời thế. Học thuyết vô vi của Lão Tử nhấn mạnh “Vô dục”, “Vô vi”, “bất tranh”. Ông cho rằng bản tính tham lam, hiếu thắng là nguồn gốc của mọi cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn. Muốn cho xã hội thái bình, con người phải sống thanh cao, không tham lam, không màng danh lợi. Lão Tử quan niệm Đạo, Đức, Lễ, Nghĩa là bất đắc dĩ vì mất đạo mới bày ra đức, mất đức mới bày ra nhân. Mất nhân mới bày đặt ra lễ nghĩa.

Đạo gia học phái lên tiếng phê phán gay gắt lễ nghĩa. Luân thường của Nho gia bày đặt ra là giả tạo. Là phản tự nhiên nhằm mục đích mưu cầu danh lợi làm cho xã hội đi chệch hướng. Lão Trang và học phái đạo gia là những con người có tư tưởng phóng khoáng. Muốn được sống hoà mình vào thiên nhiên, coi trọng mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên. Đề cao cái tôi thanh cao cùng chất lãng tử của con người nghệ sỹ.

Họ tỏ ra xem thường và khinh miệt mọi cường quyền, bạo lực, xem khinh sĩ phu của Nho gia học phái luôn luôn tự kiêu cho mình là thành đạt trong áo mão xênh xang; tuy ngực đeo bài ngà, tay ôm hốt ngọc tận tuỵ lăn lộn trong chốn quan trường, xu nịnh bọn vua quan cũng chỉ để kiếm chút danh, chút lợi.

lao tu va triet ly vo vi
Minh họa

Thuyết vô vi của Lão Đam là cứu cánh của những con người tha thiết yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Muốn sống một cuộc đời nhàn tản thanh cao như Tiên như Phật. Dẫu rằng còn nhiều hạn chế trong tư tưởng của mình. Lão Tử vẫn là triết gia kiệt xuất, là người thầy của Đạo gia, đứng đầu trong “Bách gia chư tử”. Với những cống hiến xuất sắc như: Sáng lập khái niệm Đạo, phân tích rõ bản nguyên thế giới, nêu lên thuyết vô thần. Phép biện chứng duy vật sơ khai, tư tưởng của Ông có ảnh hưởng sâu rộng không chỉ trong thời cổ – Trung đại Trung Quốc. Mà còn lan toả đến nhiều quốc gia châu á cho đến tận hôm nay.

Lời bàn :

Phải chăng học thuyết “Vô vi” của Lão Tử. phản ánh tâm trạng bất đắc chí của người có tài mà đời không dùng? Không! Đó chính là tâm trạng của tầng lớp quí tộc chủ nô đang bị sa sút trước sự vươn lên nắm quyền thống trị xã hội của giai cấp địa chủ mới hình thành.

Dù cho tư tưởng Lão Tử còn nhiều hạn chế. nhưng Triết học xuất thế của ông cũng có ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội Trung Quốc bởi Triết lý nhân sinh của Lão Tử nhấn mạnh vào các yếu tố: Nhu – Thuận – Tĩnh – Thủ và Triết lý xử thế của ông là: Nhẫn – Thoái – Không tranh – Không đấu. Triết lý đó đã tạc vào lịch sử Trung Hoa hình ảnh ông già khắc khổ, ẩn dật nơi thâm sơn cùng cốc, vô vi trước mọi thăng trầm. thả hồn vào trời mây non nước. Đó là một phong cách Nhu – Thuận nhưng đầy cá tính, cao ngạo và ấn tượng trở thành khuôn mẫu cho muôn đời.

Ẩn sĩ” đời nào cũng bị xem là “gàn dở” bởi vì họ tránh xa danh lợi, vinh hoa phú quí mà đó lại là mục đích phấn đấu của đám Nho sĩ và người đời.

Than ôi! Đời người ngắn ngủi lắm thay. Chỉ như vó câu qua cửa mà sao phải đeo đuổi những thứ phù du như mây bay, gió thoảng làm chi ?

Đọc Lão Tử ta phải suy ngẫm, phải “đặt” Lão Tử cạnh Khổng Tử trong bối cảnh bon chen, đua lấn của thời Chiến Quốc. Mới thấy được sự vĩ đại và trí tuệ thâm sâu của tư tưởng Lão Trang. Khổng Tử và Lão Tử dường như là hai mặt đối lập. Hai dòng tư tưởng đi song hành và bổ trợ cho nhau trong xã hội phong kiến Trung Hoa suốt 2500 năm qua và mãi mãi về sau.