Dân tộc Việt có một quá khứ đáng tự hào và trân trọng, các vị vua Hùng chính là “linh hồn” kiến tạo nên giai đoạn lịch sử quan trọng đó. Thời kỳ do các vua Hùng làm chủ từng được xem như một giai đoạn huyền sử không có thật, nhưng những khám phá khảo cổ đã chứng tỏ sự tồn tại của một nhà nước trong thời kỳ cội nguồn của dân tộc Việt, được kế thừa truyền thống từ các văn hóa cổ xưa tại vùng Động Đình, Dương Tử trong huyền sử được truyền lại từ ngàn xưa.

Họ phát triển mạnh mẽ trình độ văn minh của mình liên tục trong nhiều nghìn năm, thể hiện trên cả hai khía cạnh tinh thần và vật chất, với biểu hiện di vật từ thời kỳ đồ đá, đồ ngọc cho tới đồ đồng, cùng những di sản tinh thần hiện đã phai mờ hoặc biến mất. Sự phát triển đó đi cùng với trình độ văn minh, đi cùng với trang phục, thế nhưng hình ảnh “trang phục” của thời đại này lại được các nhà nghiên cứu khắc họa một cách kỳ lạ và khó hiểu:

Trang phục được phục dựng lại một cách bất hợp lý như thế, đã tạo nên những hiểu lầm không nhỏ trong suy nghĩ của người Việt về thời đại các vua Hùng của dân tộc mình, cho rằng thời kỳ đó người Việt đang còn trong trạng thái sơ khai, lạc hậu, bởi đây là dạng trang phục của một dân tộc chậm tiến, kém văn minh, chứ không phải của một dân tộc đã tạo ra những chiếc trống đồng với những ý niệm sâu xa, phi thường, cũng như có một tiến trình phát triển văn minh lâu dài trong nhiều ngàn năm.

Sự bất hợp lý trong phục dựng trang phục thời kỳ Hùng Vương còn thể hiện rõ hơn, khi chính những phát hiện khảo cổ đã chứng tỏ người Việt biết dệt vải ngay từ thời kỳ văn hóa Hà Mẫu Độ cho tới Lương Chử (cách ngày nay từ 7000 tới 5000 năm), kế thừa vào thời văn hóa Phùng Nguyên (cách ngày nay hơn 4000 năm), tới thời Đông Sơn thì đã có khuy áo, có khóa thắt lưng, chứng tỏ lịch sử lâu dài và sự phát triển tới độ phức tạp và cầu kỳ của trang phục Việt. Vậy nên, trang phục “cởi trần, đóng khố, đeo lá cây” là một hình ảnh bất hợp lý, thiếu chính xác và cũng không khách quan với những thực tế khảo cổ học.

Việc phục dựng lại trang phục thời kỳ Hùng Vương là rất quan trọng, có thể tác động tới nhận thức của mọi người về thời kỳ này. Đó là điều chúng tôi cho rằng cần thiết phải làm được, mặc dù sẽ gặp phải rất nhiều khó khăn, do sự thiếu thốn tư liệu. Nhưng có một điều rất may mắn với chúng ta: còn nhiều dân tộc ở miền Đông Á và Đông Nam Á ngày nay giữ gìn được những nét văn hóa của cộng đồng Việt cổ xưa, trong đó có trang phục, và tư liệu hình ảnh từ các cổ vật văn hóa Đông Sơn, tư liệu cổ sử và văn hóa, cũng như cổ vật Điền Việt là những tư liệu đặc biệt quan trọng để chúng ta tìm lại trang phục cổ của dân tộc mình.

Qua những cơ sở đó, chúng tôi sẽ tiến hành phục dựng lại trang phục thời kỳ Hùng Vương, với hướng đi lấy cổ vật Việt thời Đông Sơn làm cốt lõi, so sánh, đối chiếu, chọn lọc qua cổ vật văn hóa Điền Việt, đối chiếu, so sánh với các dân tộc còn lưu giữ những nét văn hóa Việt cổ với sự cẩn trọng cần thiết để có thể tìm lại những dạng trang phục cơ bản nhất của thời kỳ này.

Chúng tôi hy vọng rằng công trình này của mình có thể làm cơ sở cho việc phục dựng trang phục Việt cổ thời Hùng Vương sau này, từ đó góp phần thay đổi nhận thức của mọi người về cội nguồn của dân tộc, để có thể thấy được quá khứ đáng tự hào mà Tổ Tiên người Việt đã từng xây dựng nên.

Bài khảo cứu sẽ được chúng tôi chia thành bốn phần, phần đầu tiên là tiền đề chứng minh có sự tồn tại của trang phục, phần tiếp theo, chúng tôi sẽ tìm kiếm, phục dựng tương đối các loại trang phục thời Hùng Vương, cũng như tìm lại các dạng mũ miện, trang sức, phụ kiện và các hoa văn sử dụng trong trang trí trang phục.

Nếu có bất kỳ điểm nào mà bạn đọc thấy chưa thỏa đáng ở bài viết, xin hãy tự nhiên chia sẻ quan điểm của mình ở phần bình luận, để chúng tôi có thể hoàn thiện hơn bài khảo cứu của mình.


PHẦN I

CƠ SỞ CHO VẤN ĐỀ TRANG PHỤC THỜI HÙNG VƯƠNG

I. Những vấn đề logic khi tìm hiểu về trang phục thời kỳ Hùng Vương:

Việc nghiên cứu trang phục thời kỳ Hùng Vương từ trước tới nay đều chưa có sự khảo sát toàn diện các tư liệu lịch sử, khảo cổ, văn hoá, trang phục thời kỳ này đã được mặc định là dạng trang phục cởi trần, đóng khố, ngoài ra không còn trang phục gì khác đối với nam giới. Tuy nhiên các yếu tố logic về tự nhiên, dân tộc, trình độ phát triển đã thể hiện tính bất hợp lý trong tư duy cởi trần đóng khố về trang phục thời kỳ Hùng Vương.

1. Vào thời kỳ Đông Sơn hơn 2200 năm trước, thì nhiệt độ trung bình của trái đất thấp hơn ngày nay khá nhiều (hình dưới), miền Bắc nước ta trong thời kỳ đó lại nằm trong vùng có mùa đông rất lạnh, có thể còn có băng tuyết (đến thời Lý, thời tiết vẫn còn lạnh hơn ngày nay và có hiện tượng băng tuyết ghi lại trong sử sách [1]), thêm nữa, do khí hậu có độ ẩm cao nên mùa đông ở miền Bắc Việt Nam thường lạnh giá hơn so với nhiệt độ thực tế. Với khí hậu như vậy, thì trang phục đóng khố, cởi trần chắc chắn sẽ không thể chống chịu được thời tiết khắc nghiệt trong mùa đông.

Khí hậu của miền Bắc Việt Nam cũng có mùa nóng, trang phục có thể đơn giản hơn trong mùa này, người Việt cũng đã sáng tạo ra nhiều chất liệu có tính thoáng mát như vải lanh, vải tơ chuối…  để phù hợp cho tiết trời nóng bức. Chiếc khố chỉ được sử dụng trong đời sống lao động, có thể thấy trong các hình ảnh tư liệu thời Pháp thuộc, thì nông dân, ngư dân Việt vẫn đóng khố để thuận tiện cho lao động, thường ngày, họ vẫn mặc trang phục đầy đủ, chiếc khố thường ngày có thể chỉ được sử dụng như một dạng đồ lót mặc trong trang phục thôi vậy.

Lưu bản nháp tự động
Bản đồ nhiệt độ của thế giới theo thời gian, có thể thấy là nhiệt độ 2000 năm trước lạnh hơn ngày nay khá nhiều. (Theo Richard S Williams Jr, Jane G Ferrigno (2012). State of the Earth’s cryosphere at the beginning of the 21st century: Glaciers, global snow cover, floating ice, and permafrost and periglacial environments. Director;508:344-6840.)

Quần áo có tác dụng bảo vệ cơ thể khỏi sự giá lạnh của thời tiết, và theo các nghiên cứu, thì khi loài người còn ở châu Phi đã có quần áo [1a, 1b]. Quần áo trong giai đoạn trước khi  rời khỏi châu Phi có thể bằng lông thú, vỏ cây, lá cây quấn quanh người. Nhiệt độ của miền Bắc Việt Nam vào mùa đông cao hơn nhiệt độ trung bình ngày nay, vậy nên để duy trì sự sống trước thời tiết lạnh giá, con người cần mặc đủ ấm.

2. Vấn đề thứ hai, một vấn đề logic mà chúng ta thường bỏ quên: văn minh vật chất, văn minh tinh thần phải đi cùng với trang phục. Những người tạo ra những chiếc trống đồng phức tạp và tinh xảo, với trình độ luyện kim thượng thừa, ý niệm nghệ thuật phi thường, cô đọng, ẩn giấu những triết lý thâm sâu mà hậu thế chúng ta ngày nay còn chưa thể hiểu hết được, không lẽ lại là những người dã man, kém văn minh, không biết may trang phục mà mặc hay sao?

Xét về tính logic, nếu còn mặc trang phục như thế, thì con người chưa tới tiến ngưỡng cửa văn minh, bởi dệt vải, may trang phục là nền tảng cơ bản đầu tiên chứng tỏ trình độ văn minh của cư dân nông nghiệp định cư. Không biết dệt vải may trang phục, cũng có nghĩa họ không có đủ năng lực vật chất, tri thức và kỹ thuật để tạo nên những chiếc trống đồng tinh xảo, vì vậy cũng sẽ không tồn tại nền văn minh Đông Sơn ảnh hưởng rộng lớn tới khắp vùng Đông Á và Đông Nam Á như vậy.

Lưu bản nháp tự động
Trống đồng: Biểu tượng cho thời đại văn minh của người Việt. (Ảnh: trống đồng Khai Hoá, Bảo tàng Viên)

3. Người Việt có nguồn gốc chung với các dân tộc ở vùng miền Bắc Việt Nam và Nam Trung Hoa như: Mường, Tày, Thái, Nùng… [2], cùng với đó là các dân tộc có địa bàn sinh sống trong vùng đất nay là Trung Hoa như Choang, Dai, Thủy… Có thể thấy họ đều có trang phục, và trang phục đều có những điểm chung và có sự tương đồng, thống nhất nhất định trong dạng trang phục, màu sắc, hoa văn, suy luận một cách hợp lý, thì người Việt cũng phải có một dạng trang phục tương tự như thế.

4. Những logic chúng tôi đề cập tới ở trên đã thể hiện việc phục trang cởi trần đóng khố cho người Việt thời Hùng Vương là bất hợp lý, bởi họ là những người thuần hóa lúa nước từ sớm, phát triển đời sống nông nghiệp định cư, tạo ra nguồn lương thực dư thừa để phát triển đời sống vật chất, biểu hiện qua các giai đoạn đồ đá, đồ ngọc cho tới đồ đồng. Đời sống văn minh đó phải đi cùng với trang phục, đi cùng với kỹ thuật dệt vải, điều này sẽ được chúng tôi chứng minh thông qua những bằng chứng chứng tỏ kỹ thuật dệt vải của người Việt khởi nguồn từ thời kỳ Hà Mẫu Độ tới Lương Chử và văn hóa Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn.

II. Cơ sở cho trang phục từ khảo cổ học và lịch sử: 

Chúng tôi sẽ đi tìm những cơ sở từ khảo cổ học và thư tịch lịch sử để chứng minh sự tồn tại của vải, kỹ thuật dệt vải cùng với khả năng sản xuất vải số lượng lớn, là những tiền đề chứng minh cho sự tồn tại trang phục của người Việt trong thời kỳ Hùng Vương.

1. Liệu người Việt có biết dệt vải hay không?

Nguồn gốc của người Việt là một vấn đề chính để chúng ta xác định được thời điểm xuất hiện của kỹ thuật dệt vải trong xã hội Việt thời xưa. Vấn đề nguồn gốc người Việt đã được chúng tôi khảo cứu kỹ lưỡng trong bài “khảo cứu về nguồn gốc dân tộc Việt Nam”, các văn hóa tại vùng Động Đình, Dương Tử là cội nguồn gần nhất của người Việt trước khi về Việt Nam, tại đây đã tìm thấy nhiều dấu tích quan trọng chứng minh sự tồn tại của vải và kỹ thuật dệt vải. Vào thời điểm 4000 năm trước, người Việt từ vùng Động Đình, Dương Tử đã di cư về Việt Nam, các nghiên cứu di truyền học đã thể hiện rất rõ dòng di cư này [2][13]. Khi họ di cư về Việt Nam, thì tại văn hóa Phùng Nguyên, cũng đã tìm thấy rất nhiều dọi xe sợi là bằng chứng quan trọng chứng tỏ sự tồn tại của kỹ thuật dệt vải.

a. Bằng chứng từ khảo cổ học: 

Người Việt đã biết dệt vải từ rất sớm, ngay từ thời điểm văn hóa Hà Mẫu Độ đã tìm thấy những mảnh khung dệt nguyên thủy sớm nhất thế giới, kế thừa nó là văn hóa Lương Chử có niên đại hơn 5000 năm trước ngày nay đã có dấu tích của các mảnh vải bằng các chất liệu lụa, lanh, gai, sau khi họ di cư về Việt Nam, tại văn hóa Phùng Nguyên, cũng đã thể hiện những dấu tích quan trọng chứng minh kỹ thuật dệt vải: dấu vải và dọi xe sợi. Tới thời Đông Sơn thì nghề dệt vải đã thịnh đạt, chiếm thế chủ đạo trong đời sống của người Việt, và họ cũng phát triển được nhiều chất liệu vải khác nhau.

◊ Dấu tích tại văn hóa Hà Mẫu Độ và Lương Chử: 

– Những mảnh của khung dệt nguyên thủy cũng được tìm thấy từ các địa điểm của văn hóa Hà Mẫu Độ tại tỉnh Chiết Giang, di vật sớm nhất được tìm thấy có mốc niên đại vào khoảng 8000 năm trước ngày nay [3], đây là những mảnh khung dệt cổ nhất thế giới, kế cận giai đoạn này, là những mảnh khung dệt có niên đại khoảng 6500 năm cách ngày nay (hình dưới).

Lưu bản nháp tự động
Khung dệt được phát hiện tại Dư Diêu, Chiết Giang thuộc văn hóa Hà Mẫu Độ, có niên đại khoảng 6500 năm cách ngày nay. [Nguồn]

– Dấu tích vải với các chất liệu lụa, vải lanh (hemp) và vải gai (ramie) đã được tìm thấy trong các địa điểm văn hóa Lương Chử – Chiết Giang, có niên đại từ 2700 năm trước Công nguyên. Đây là các chất liệu cơ bản được kế thừa và sử dụng trong các văn hóa từ Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn, thời kỳ Đông Sơn cũng tìm được 3 loại chất liệu cơ bản này trong vải mặc. [4]

Mảnh lụa, sợi lụa và mảnh vải gai được tìm thấy tại văn hóa Lương Chử, có niên đại tới khoảng 4700 năm BP. [Nguồn: 123]

◊ Dấu tích tại các văn hóa Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn tại Việt Nam:

– Khoa khảo cổ đã tìm thấy rất nhiều dọi xe sợi trong các di chỉ thuộc giai đoạn văn hóa Phùng Nguyên cách nay 4000 năm. GS.TS Hán Văn Khẩn, Viện khảo cổ học Việt Nam xác nhận: “Dọi xe chỉ tìm thấy khá phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Nó được làm bằng đất sét tương đối mịn hoặc tương đối thô… Dọi xe sợi có đường kính trung bình 0,6 – 2cm… Như vậy, nghề dệt vải đã phổ biến trong văn hóa Phùng Nguyên. Cư dân văn hóa này ít nhất có hai loại vải mặc, đó là vải dệt từ sợi và vải vỏ cây”. [5]

Lưu bản nháp tự động
Dọi xe sợi văn hoá Phùng Nguyên (cách nay 4000 năm) [Tạ Đức, 2013, Nguồn gốc người Việt – người Mường]

Dọi xe sợi có chức năng se nguyên liệu thành sợi vải. Đây là bằng chứng quan trọng chứng tỏ cho sự tồn tại của kỹ thuật dệt vải.

Tư liệu về cách sử dụng dọi xe sợi của Thổ Nhĩ Kỳ và châu Mỹ. [Nguồn: 12]

– Khảo cổ học Việt Nam phát hiện nhiều vết tích vải vóc bao bọc trên các đồ sứ, đồ đồng, nhất là trong các mộ táng. Tại Bắc Bộ Việt Nam tìm thấy dấu vết các loại vải sớm trong các di tích Châu Can, Phùng Nguyên, Đồng Đậu, chứng tỏ người Phùng Nguyên đã biết dệt vải (Lê Văn Lan, Trịnh Minh Hiên [1973: 236]). [6]

– Một số mộ táng thời Hùng Vương ở Lâm Thao (Phú Thọ) thuộc giai đoạn văn hóa Gò Mun cách nay 3.000 năm thấy rõ vết vải liệm trên hài cốt. Các mộ Châu Can (Hà Tây cũ), mộ Việt Khê (Hải Phòng) thuộc văn hóa Đông Sơn cách nay 2.800 năm đến thế kỷ II trước công nguyên, đều có vải liệm. [5]

Lưu bản nháp tự động
Vải thời văn hoá Đông Sơn. (Nguyễn Việt)

– Năm 2002, trung tâm tiền sử Đông Nam Á kết hợp với bảo tàng Hưng Yên khai quật khu mộ táng hình thuyền ở Động Xá, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên. Từ khoảng 1200 miếng vải to nhỏ khai quật được phát hiện ra 7 loại vải, làm từ ba cỡ sợi của hai lối dệt khác nhau. Ngoài những phát hiện các loại vải khá giống ở mộ Châu Can, mộ Động Xá còn tìm thấy hơn 20 miếng vải làm từ những băng sợi lanh màu nhuộm chàm. Nền vải chính dệt xen kẽ những sợi gai cho thấy sự đa dạng trong kiểu cách thời bấy giờ, có những loại vải phục vụ riêng cho yêu cầu trang trí hoặc để may cắt và thêu trang phục. [7]

Vải thời văn hóa Đông Sơn [Nguyễn Việt]

– Năm 2005 hai tiến sĩ khảo cổ học Nguyễn Việt và Bùi Văn Liêm hợp tác với hai tiến sĩ khảo cổ học người Úc, khai quật ngôi mộ ở Động Xá (Hưng Yên) có niên đại 2.100 (+_60 năm). Trong ngôi mộ tìm thấy một tấm vải liệm còn nguyên vẹn, bên trong còn bọc vài lớp vải nữa… Họ kết luận: “Dữ liệu vải sợi của đội khảo cổ Việt Nam – Úc ở Đông Xá khẳng định rằng, nghề dệt vải đã phát triển trong thời đại kim khí ở Bắc Việt Nam và rằng vải giữ vai trò trung tâm trong mộ táng Đông Sơn, không chỉ cho trang phục mà còn làm chiếu, vải bọc và vải liệm”. [5]

Lưu bản nháp tự động
Miếng vải nguyên vẹn trong mộ Động Xá. [Nguồn]

b. Bằng chứng từ lịch sử: 

Thư tịch lịch sử cũng ghi lại một dấu tích quan trọng chứng tỏ cho sự phát triển và quy mô của nghề dệt vải của người Việt trong thời gian đầu thời kỳ Bắc thuộc, thể hiện một trình độ phát triển cao trong kỹ thuật dệt vải của người Việt đã có từ trước đó:

Sử có ghi lại rằng, vào thế kỷ I – II, vào thời nhà Hán, nhà Ngô đô hộ đất nước ta, chính quyền đô hộ buộc dân Việt phải cống nộp vải Cát Bá (một loại vải bông trắng mịn), vải tơ chuối, lụa tơ tằm. Tới thời Đường, chính quyền Trung Quốc đánh thuế người Việt bằng các loại vải, lụa, sa, the. Điều này cho thấy, vải dệt dành cho may mặc của người Việt từ đầu công nguyên đã rất phong phú, đẹp đẽ, và được người Hán ưa chuộng.

Các tài liệu của Trung Quốc cũng ghi chép về các loại vải tơ chuối, vải bông (cát bá), các loại vải này là minh chứng cho sự phát triển của nghề dệt vải tới độ đa dạng về chất liệu của người Việt thời kỳ hậu Đông Sơn không lâu, cũng như khả năng sản xuất số lượng lớn, với chi tiết Sĩ Nhiếp đưa về làm cống phẩm cho triều đình hàng nghìn tấm vải cát bá mịn.

Sách Quảng chí của Trung Quốc chép: “Ở Giao Chỉ, thân cây chuối xé ra như tơ, dệt thành vải gọi là tiêu cát, dễ rách, nhưng đẹp, màu vàng nhạt. Cũng gọi là vải Giao Chỉ.” Từ vải tơ chuối, lại tiến đến vải dệt bằng sợi quả cây bông vải, gọi là vải cát bối hay cát bá. Sách Ngô lục của Trương Bột ghi: “Huyện Yên Định ở Giao Châu có cây bông cao hơn một trượng, quả to như chén rượu, da mỏng, trong ruột như mối tơ, sắc trắng bạch, làm vải được…”. Trong những sản vật mà Sĩ Nhiếp đưa về làm cống phẩm có hàng nghìn tấm vải cát bá mịn (…) Đã dệt được khăn bông, thêu hoa, gọi là “bạch diệp”. [5a]

2. Những chiếc khuy áo và khóa thắt lưng: 

Những bằng chứng từ khảo cổ và lịch sử chứng tỏ rằng cư dân tộc Việt đã biết dệt vải từ sớm, tại Việt Nam, thì người Việt cũng đã sản xuất được vải ngay từ thời văn hóa Phùng Nguyên sau khi di cư về Việt Nam, tới thời Đông Sơn thì đã có khả năng sản xuất số lượng lớn, cung cấp vải cho đa số cư dân. Và chúng tôi còn tìm thấy những bằng chứng chứng tỏ cho sự tồn tại của trang phục thời kỳ Hùng Vương: khuy áo và khóa thắt lưng.

Lưu bản nháp tự động

– Những chiếc khuy áo bằng đồng này được phát hiện tại di chỉ Gò Quê trên địa bàn văn hóa Sa Huỳnh, cùng với nhiều hiện vật Đông Sơn khác như hộ tâm phiến, dao găm (sắt và đồng), rìu cân xòe cùng những chiếc khuy đồng này, trên đó có dấu vết của vải [Trịnh Sinh].

Những chiếc khuy này từng được thấy sớm nhất trong mộ Việt Khê (Hải Phòng, thế kỷ 3 TCN), cũng như xuất hiện trong nhiều di chỉ Đông Sơn khác. Theo thông tin khảo cổ, thì tại ngôi mộ Việt Khê cũng đã thu thập được nhiều loại vải khác nhau. [Nguyễn Việt]

Lưu bản nháp tự động
Chiếc khuy đồng Đông Sơn trong mộ Việt Khê được trưng bày tại bảo tàng lịch sử Việt Nam. [Nguồn: Gary Todd, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, dẫn]
Lưu bản nháp tự động
Ảnh phóng đại chiếc khuy đồng trong mộ Việt Khê. [Nguồn: Gary Todd, Bảo tàng lịch sử Việt Nam, dẫn]

Theo Ts. Lâm Thị Mỹ Dung, thì loại khuy này đã có tiền thân là loại khuy bằng ngọc được phát hiện trong thời văn hóa Đồng Đậu (3500 năm trước ngày nay).

Lưu bản nháp tự động
Khuy bằng ngọc thời văn hóa Đồng Đậu (3500 trước). [Bùi Hữu Tiến, LVTS: Văn hóa Đồng Đậu và vị trí của nó trong thời đại đồng thau ở lưu vực sông Hồng]

Bên cạnh đó, khảo cổ học Việt Nam phát hiện rất nhiều những chiếc khóa thắt lưng bằng đồng, với nhiều kiểu dáng khác nhau, được đúc tinh xảo với nhiều kiểu dáng tinh tế.

Những chiếc thắt lưng tinh xảo được sử dụng cùng với trang phục thời Đông Sơn. [Nguồn: BST Phạm Lan Hương, BST Bảo tàng Barbier-Mueller]

Đây là những bằng chứng rất quan trọng chứng tỏ vấn đề trang phục của người Việt thời kỳ Hùng Vương: có khuy, có khóa thắt lưng, tức có trang phục, không chỉ thế, trang phục còn có thể phát triển tới độ phức tạp và cầu kỳ, tư duy về trang phục của Tổ Tiên chúng ta cũng đã rất tiến bộ.

III. Thử tìm hiểu về chất liệu, kỹ thuật dệt may và màu sắc của vải trong thời kỳ này:

1. Chất liệu:

a. Theo các tài liệu khảo cổ học: 

Theo tài liệu khảo cổ học, thì có 3 chất liệu cơ bản được sử dụng trong dệt may của người Việt thời Đông Sơn:

Có ba chất liệu được khảo cổ xác nhận chắc chắn được sử dụng trong dệt may trang phục Đông Sơn, đó là sợi tơ tằm, sợi làm từ cây gai, và sợi làm từ cây lanh. [8]

Các chất liệu cơ bản này đã bắt đầu được sử dụng từ thời văn hóa Lương Chử, với những mảnh vải, sợi vải lụa, gai và lanh tìm được có niên đại sớm nhất vào khoảng 4700 năm trước ngày nay, thời kỳ Đông Sơn hay tới thời phong kiến và ngày nay, người Việt vẫn tiếp tục sử dụng những chất liệu này trong may mặc trang phục. Lụa có thể cũng đã được sử dụng phổ biến từ ngay thời kỳ này, với nhiều dấu lụa tìm được tại văn hóa Lương Chử.

Tới thời Đông Sơn, thì những khảo cứu khảo cổ học cũng đã cho phép khẳng định về việc sử dụng phổ biến sợi tơ tằm, thêm vào đó, thì tài liệu lịch sử cũng ghi lại rằng trong giai đoạn đầu công nguyên, trong khi Trung Quốc một năm chỉ nuôi được 3 lứa tằm thì năng suất tằm ở Giao Chỉ, Nhật Nam, Lâm Ấp một năm đạt được tới 8 lứa, tạo ra nguồn cung lớn để cung cấp vải lụa cho các tầng lớp cư dân. [Thủy Kinh Chú, Tam Đô Phú, Tề Dân Yếu Thuật] [7] [9]

b. Theo các tài liệu lịch sử: 

Người Việt cũng đã sáng tạo ra rất nhiều loại vải khác nhau, dựa trên những loại chất liệu có nguồn gốc từ tự nhiên:

“Nghề dệt đan cũng là một thành tựu đáng kể của người Bách Việt cổ. Khảo cổ học đã phát hiện khoảng 20 loại vải khác nhau đã từng xuất hiện ở cộng đồng này, phổ biến có vải đayvải gailụagấmthevải thuyên, v.v. với nhiều khổ vải khác nhau tùy theo từng vùng, trong đó nổi tiếng nhất là các loại vải làm từ sợi gaiđay [Li Hui-Lin 1983: 48].

Chất liệu may mặc thiên về thực vật. Vào khoảng 1.000 năm trCN, vùng Bách Việt đã sản xuất được nhiều chủng loại vải vóc khác nhau, như tơ đaytơ gaitơ lụathevải thuyênvải savải tơ rối v.v… Vải bông xuất hiện muộn hơn. Đến đầu CN, dân Đông Lạc Việt ở đảo Hải Nam đã sản xuất loại vải khổ to rất được ưa chuộng (theo Hậu Hán Thư). Ban Cố trong Hán Thư viết “… (Vùng Nam Việt) gần biển, có tê giác, voi, trân châu, bạc, đồng, trái cây, gấm vóc..”, “(Đảo Hải Nam) nam thì làm đồng, nữ thì dệt vải”. Trong mộ Nam Việt Vương tại Quảng Châu tìm thấy “bao vải đay”, “bó dây thừng vải đay” và nhiều “di vật bằng lụa” khác. Khảo cứu của Eberhard W. [1968: 270-277] cho thấy loại vải cát bối (sớm nhất ở Lâm Ấp), vải ngô đồng, vải câu mang, vải mộc miên và vải làm từ vỏ cây dó là đặc sản Lĩnh Nam và Vân–Quý, kết quả của tài trí tận dựng các loại chất liệu thực vật chỉ có ở địa phương. Hơn thế, kỹ thuật dùng vỏ cây dó của người Bách Việt được xem là tiền thân của nghề chế tạo giấy, mà sau này người Hán ghi công phát minh cho Thái Luân đời Tây Hán [Eberhard W. 1968: 270-275].

Đặc biệt hơn, tiểu vùng Tây Lạc Việt còn có loại vải tơ chuối, được sản xuất bằng kỹ thuật tiến bộ. Loại vải này rất phù hợp với kiểu thời tiết nóng bức của mùa hè nên rất được ưa chuộng (ghi trong Nam Châu Dị Vật Ký, Ngô Đô PhúNam Phương Thảo Mộc Trạng). Về sau kỹ thuật chế biến truyền rộng khắp Lĩnh Nam, đến thời Đường, nó đã trở thành vật triều cống của nhiều vùng đất như Quảng Châu, Triều Châu, Đoan Châu, Phong Châu, Hạ Châu, Tân Châu (thuộc Quảng Đông), thậm chí lên đến tận Kiến Châu vùng Ngô-Việt (ghi trong Nguyên Hòa Quận Huyện Chí). Vải trúc tuy chỉ là mặt hàng thứ cấp song cũng sớm xuất hiện trong lịch sử. Ngoài ra, cây ngô đồng cũng cung cấp lượng nguyên liệu dệt vải đáng kể.” [6]

2. Kỹ thuật dệt may: 

Thời kỳ văn hóa Đông Sơn, đã có những nghiên cứu chứng minh những kỹ thuật phức tạp trong dệt may trang phục: sử dụng xen kẽ các loại sợi để tạo thành các loại vải chất lượng cao, kỹ thuật thêu, kỹ thuật dệt đăng-ten (tạo khoảng trống).

– Trong ngôi mộ cổ Việt Khê ở Thủy Nguyên – Hải Phòng khai quật năm 1958, và khu ngôi mộ ở xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Sơn Bình (Hà Tây cũ) khai quật năm 1974 đã thu thập được nhiều loại vải khác nhau. Khu mộ ở Châu Can đã tìm được những mảnh vải của trang phục, nhiều nhất là ngôi mộ số 3 và số 6. Nhận xét bước đầu: “Những mảnh vải sợi không được se lại mà để nguyên sợi tự nhiên, sợi dọc thưa hơn sợi ngang và cách đều khoảng 2mm sợi ngang bé hơn đượt dệt dày xít nhau đều đặn”. Có những mảnh vải có đường mép dọc và ngang, điều này chứng tỏ sợi vải được dệt vòng đi vòng lại. Theo ý kiến của kĩ sư phòng kĩ thuật dệt thuộc nhà máy dệt kim Đông Xuân thì đây là loại vải sợi đay hay gai, sợi dọc to và thưa hơn sợi ngang nhưng rất đều. Chiều ngang và chiều đọc vải đều có đường biên, khổ vải hẹp, có thể vải được dệt bằng phương thức con thoi với khung cửiKhi nói về thời đại kim khí, F. Ăng-ghen nhận xét: “Thành tựu thứ nhất là khung dệt vải, thành tựu thứ hai là việc nấu quặng và chế tác đồ kim loại”, vậy từ những mảnh vải, lụa và kĩ thuật dệt ở khu mộ Châu Can đã chứng tỏ trình độ văn minh phát triển ở thời Hùng Vương. [7]

– Theo TS Nguyễn Việt, năm 2000, trung tâm tiền sử Đông Nam Á đã thu thập nghiên cứu cùng với người nước ngoài để bảo quản thành công các miếng vải cổ trong mộ thuyền Châu Can. Những mảnh vải này thực sự đã cho ta thấy rõ nét kĩ thuật dệt, cấu tạo trang trí, may cắt, các loại diềm tua và trang phục thời Đông Sơn. Qua nghiên cứu 118 miếng vải lớn nhỏ được chắt lọc ra từ 0,015m khối đất bùn vớt ra từ lòng mộ Châu Can. Những mảnh vải hiện diện rõ những phần khác nhau của trang phục. Trang phục ở mộ mà chủ nhân được chôn là một thanh niên tuổi khoảng 18 đến 20, mặc áo có diềm khâu, diềm tua. Vạt áo trang trí dệt bằng hai loại sợi hỗn hợp: sợi lanh (cannabis) và lụa (silk). Những mảnh thắt lưng ở mộ Châu Can được dệt bằng chất liệu sợi vải gai (boehmira) có bề ngang rộng khoảng 6cm. Kĩ thuật dệt vải thắt lưng đều được se theo kĩ thuật xoắn nhưng hoàn toàn khác so với kĩ thuật se xoắn S phổ biến hiện nay. Những bằng chứng đầu tiên của  thuật thêu (embroidery) cũng đã tìm thấy ở trang phục trong những ngôi mộ này. [7]

– Nghiên cứu hơn 1300 mảnh vải và lụa khác nhau có tuổi khoảng 2100 đến 2300 năm, bước đầu biết chúng thuộc loại sợi thân cây gai (boehmira) và lanh (cannabis). Trên một số mảnh vải gai có hiện tượng sợi dọc mất đứt đoạn tạo ra như vải dệt kiểu đăng-ten. Trong những công bố đầu tiên cho rằng do kĩ thuật dệt tạo nên vải như vậy, nhưng sau khi những mảnh vải này qua kính phóng đại cho thấy những vết lồi lõm, so le đều đặn ở phần sợi đăng-ten là dấu ấn tồn tại của những sợi dọc trước đây. [7]

3. Màu sắc của vải và trang phục: 

a. Theo tài liệu khảo cổ, thì có 4 màu sắc chính thể hiện trên vải cổ thời Đông Sơn:

“Có thể nhận ra bốn màu sắc chính trên nền vải sợi thời Đông Sơn: Màu ngà tự nhiên của sợi vỏ cây cũng như tơ tằm (màu natural), màu xanh chàmmàu nâu gụ với những tông màu từ đậm đến tươi hồng, màu vàng nghệ óng của tơ tằm. Bốn màu trên về cơ bản vẫn được lưu truyền và ưa thích cho đến tận ngày nay trong trang phục lễ hội và hàng ngày của các dân tộc sinh sống trên đất Việt Nam.” [8]

b. Theo các tài liệu dân tộc học, thì các dân tộc ưa chuộng các màu sắc sau, đều là những màu sắc cơ bản được nhuộm từ các loại lá cây tự nhiên:

Màu sắc trên trang phục của các dân tộc: cơ bản nhất là màu chàm từ đậm tới nhạt, được hầu hết các dân tộc cùng nguồn gốc với người Việt ưa chuộng (nó cũng được thể hiện trên nền vải cổ Đông Sơn), sau đó là các màu sắc: trắngđenđỏhồngvàngnâuxanh, cam, tím.

Bạn đọc có thể tìm hiểu kỹ hơn về màu sắc cũng như kỹ thuật nhuộm tại Phần IV, Mục II.5.

IV. Trang phục thời kỳ Hùng Vương với những bằng chứng trực tiếp: 

Bên cạnh những tư liệu gián tiếp chứng minh sự tồn tại trang phục thời kỳ Hùng Vương, thì trong tài liệu lịch sử, tài liệu khảo cổ, các hình hoạ trên trống đồng cũng đã trực tiếp thể hiện trang phục trong thời kỳ Hùng Vương.

1. Tài liệu lịch sử:

Trong sách Tam Quốc Chí, phần Ngô chí có ghi lại: Thế kỷ III SCN, Thái thú Tiết Tông trong tờ sớ xin chọn Thứ sử Giao Châu đã miêu tả người Việt: “tóc búi, chân trần, áo chui đầu vạt trái”.”

Sách Tam Quốc chí đã ghi lại cụ thể về phong tục tóc búi, chân trần, cùng với chi tiết quan trọng nhất là áo chui đầu vạt trái của người Việt, cũng tương đồng với các sử liệu về phong tục của người Việt trong các thời kỳ trước. Tới thời điểm đó người Việt vẫn cơ bản giữ được phong tục và văn hóa của dân tộc mình. Áo vạt trái là đặc trưng chung của tộc Việt, có phân bố rộng khắp trong địa bàn có cư dân tộc Việt sinh sống, kiểu dáng áo này được chia thành hai loại hình, một là áo chui đầu vạt trái và áo váy quấn vạt trái.

Trong sách Luận Ngữ có ghi lại chi tiết: “Quản Trọng theo giúp Tề Hoàn Công nên nghiệp bá, nhờ vậy mà thiên hạ từ loạn đổi sang trị. Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải gióc tóc và vắt vạt áo bên trái như bọn man di. Lẽ nào vì tấm lòng trung quân nhỏ hẹp tầm thường mà đi treo cổ bên lạch suối sao?”. [Luận Ngữ, 14:17]

Man di là cách gọi có tính miệt thị được người Hoa Hạ sử dụng để chỉ người Việt, chi tiết này cung cấp cho chúng ta thông tin quan trọng về dạng áo vạt trái của người Việt từ thời Khổng Tử.

Tài liệu trong Sử Ký của Tư Mã Thiên cũng ghi lại về chi tiết người Âu Việt tại vùng Chiết Giang có phong tục xâm mình, mặc áo quấn thân sang trái, như phong tục chung của tộc Việt:

“Người đàn ông cắt tóc xâm mình, mặc áo quấn thân áo sang trái, giống như dân Âu Việt vậy”.

(Tư Mã Thiên, Sử Ký, Triệu thế gia)

2. Tài liệu khảo cổ: 

Tài liệu khảo cổ cũng đã xác nhận sự tồn tại của trang phục thời kỳ Hùng Vương, với dạng áo tương đồng với áo váy quấn vạt trái mà tài liệu lịch sử đã ghi lại:

Năm 2000, trung tâm tiền sử Đông Nam Á đã cùng với các chuyên gia nước ngoài khai quật mộ thuyền Châu Can, chủ nhân của ngôi mộ là một thanh niên tuổi khoảng 18 đến 20, trên người có trang phục, mặc áo có diềm khâu, diềm tua. Vạt áo trang trí dệt bằng hai loại sợi hỗn hợp: sợi lanh (cannabis) và lụa (silk). Những mảnh thắt lưng ở mộ Châu Can được dệt bằng chất liệu sợi vải gai (boehmira) có bề ngang rộng khoảng 6cm. [7]

3. Tài liệu cán dao găm và hình vẽ trên các trống đồng Đông Sơn:

Các tượng cán dao găm Đông Sơn, cũng như trên hình họa của trống đồng Đông Sơn cũng đã trực tiếp thể hiện trang phục thời kỳ Hùng Vương, với các dạng trang phục khác nhau đối với cả nam và nữ giới. Đây là bằng chứng khẳng định một cách chắc chắn về trang phục thời kỳ Hùng Vương. 

Trang phục được thể hiện trên cán dao găm và hình họa trống đồng Đông Sơn. [Nguồn: 1. Lê Văn Hảo; 2. BST nhà hàng Trống Đồng; 3. Hoa Văn Việt Nam – Nguyễn Du Chi; 4. Trống đồng Động Xá, chụp lại trong phim Đi tìm trang phục Việt; 5. Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam – Nguyễn Văn Huyên]

Như vậy tài liệu lịch sử, khảo cổ đều đã cùng chứng minh rằng người Việt trong thời kỳ Hùng Vương đã có trang phục, trang phục được may bằng nhiều loại vải, với nhiều kiểu dáng khác nhau, dành cho cả nam và nữ giới. Do đó hình ảnh cởi trần đóng khố là hoàn toàn không phù hợp với thực tế trang phục thời kỳ Hùng Vương.

V. Kết luận:

Những cơ sở gián tiếp và trực tiếp mà chúng tôi đã đề cập ở trên đã chứng tỏ người Việt đã có trang phục, trong đó một tiền đề quan trọng là dệt vải, thì nghề dệt vải người Việt đã có tiến trình phát triển ít nhất trong hơn 4000 năm, khởi nguồn từ văn hóa Hà Mẫu Độ, kế thừa tại các văn hóa Lương Chử và Phùng Nguyên, tới thời Đông Sơn thì vải đã phát triển về số lượng và đa dạng về chất liệu. Dấu tích về những chiếc khuy áo và khóa thắt lưng cũng chứng tỏ cho sự phát triển của trang phục thời kỳ các vua Hùng của người Việt.

Bằng chứng khảo cổ cũng đã chứng minh sự tồn tại của trang phục trong thời kỳ Hùng Vương, với nhiều kiểu dáng áo được thể hiện trên các đối tượng là nam và nữ. Do đó vấn đề trang phục của người Việt đã rõ ràng: họ có trang phục, và trang phục được may bằng nhiều loại vải, với nhiều màu sắc khác nhau, cũng như có một tư duy rất phát triển trong thiết kế trang phục.

Trong phần hai, chúng tôi sẽ tiến hành tìm kiếm và khảo sát trang phục đã từng tồn tại trong thời kỳ Hùng Vương.

Tranh minh họa: Hộ Quốc Vệ Thần. 


Chú thích và tài liệu tham khảo: 

[1] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại 2 lần tuyết rơi ở Cấm thành Thăng Long vào mùa xuân.
– Nhâm Ngọ, Long Phù năm thứ 2 (1102), (Tống Sùng Ninh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Lập xuân; tuyết lành xuống.
– Giáp Ngọ, Hội Tường Đại Khánh năm thứ 5 (1114), (Tống Chính Hòa năm thứ 4). Mùa xuân, tuyết điềm lành xuống.

[1a] Ralf Kittler, Manfred Kayser, and Mark Stoneking, Molecular evolution of Pediculus humanus and the origin of clothing. Current Biology, 2003. 13(16): p. 1414-1417.

[1b] David L Reed, Vincent S Smith, Shaless L Hammond, Alan R Rogers, and Dale H %J Plos Biol Clayton, Genetic analysis of lice supports direct contact between modern and archaic humans. 2004. 2(11): p. e340.

[2] Liu D, Duong NT, Ton ND, Van Phong N, Pakendorf B, Van Hai N, Stoneking M (2020). Extensive ethnolinguistic diversity in Vietnam reflects multiple sources of genetic diversity. Molecular Biology and Evolution.
https://doi.org/10.1093/molbev/msaa099

[3] Earliest Evidence of Pattern Looms Discovered in China
https://www.seeker.com/culture/archaeology/earliest-evidence-of-pattern-looms-discovered-in-china

[4] Gerard C. C. Tsang, Textile Exhibition: Introduction
http://www.asianart.com/textiles/intro.html

[5] Vũ Kim Biên, Thời Vua Hùng không có “văn hóa đóng khố“
https://kienthuc.net.vn/tham-cung/thoi-vua-hung-khong-co-van-hoa-dong-kho-326883.html

[5a] Trương Chính và Ðặng Ðức Siêu, Sổ tay văn hóa Việt Nam, nxb. Văn Hóa, Hà Nội, 1978, tr. 113-116.

[6] Nguyễn Ngọc Thơ (2011), Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam trong mối quan hệ với văn hóa truyền thống ở Việt Nam.

[7] Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến Việt Nam. Quang Vũ Trịnh. Nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin, 2007.

[8] Lịch sử vải sợi Việt Nam và vấn đề lễ phục – Nguyễn Việt
http://ape.gov.vn/lich-su-vai-soi-viet-nam-va-van-de-le-phuc-ds248.th#

[9] Lịch sử ra đời của các chất liệu vải thuần Việt
https://www.elle.vn/the-gioi-thoi-trang/lich-su-ra-doi-cua-cac-chat-lieu-vai-thuan-viet

[10] Hirofumi Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham, et al. (2019). Craniometrics Reveal “Two Layers” of Prehistoric Human Dispersal in Eastern Eurasia. Scientific reports;9(1):1451.

[11] Chuan‐Chao WANG Shi YAN Zhen‐Dong QIN Yan LU Qi‐Liang DING Lan‐Hai WEI Shi‐Lin LI Ya‐Jun YANG Li JIN Hui LI, et al. (2013). Late Neolithic expansion of ancient Chinese revealed by Y chromosome haplogroup O3a1c‐002611.
https://onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/j.1759-6831.2012.00244.x

[12] Yang, M.A., X. Fan, B. Sun, C. Chen, J. Lang, Y.-C. Ko, C.-h. Tsang, H. Chiu, T. Wang, and Q. Bao, Ancient DNA indicates human population shifts and admixture in northern and southern China. Science, 2020.
https://science.sciencemag.org/content/early/2020/05/14/science.aba0909

[13] McColl H, Racimo F, Vinner L, Demeter F, Gakuhari T, Moreno-Mayar JV, Van Driem G, Wilken UG, Seguin-Orlando A, De la Fuente Castro C, Wasef S (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science. 361(6397):88-92.
https://science.sciencemag.org/content/361/6397/88

[14] Matsumura H, Hung HC, Higham C, Zhang C, Yamagata M, Nguyen LC, Li Z, Fan XC, Simanjuntak T, Oktaviana AA, He JN. Craniometrics reveal “two layers” of prehistoric human dispersal in eastern Eurasia (2019). Scientific reports. 9(1):1-2.
https://www.researchgate.net/publication/330875335_Craniometrics_Reveal_Two_Layers_of_Prehistoric_Human_Dispersal_in_Eastern_Eurasia

[15] Zi-Yang Xia, Shi Yan, Chuan-Chao Wang, Hong-Xiang Zheng, et al. (2019) Inland-coastal bifurcation of southern East Asians revealed by Hmong-Mien genomic history

[16] Tạ Đức, 2013, Nguồn gốc người Việt – người Mường.

[17] Heather A. Peters, 2001, Ethnicity Along China’s Southwestern Frontier.
https://www.researchgate.net/publication/233703687_Ethnicity_Along_China’s_Southwestern_Frontier

[18] Bing Su và cộng sự, 2000,  Polynesian origins: Insights from the Y chromosome.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC26928/

[19] Per Hage và Jeff Marck, 2015, Matrilineality and the Melanesian Origin of Polynesian Y Chromosomes.
https://www.journals.uchicago.edu/doi/10.1086/379272

[20] J. Koji Lum và cộng sự, 2006, Recent Southeast Asian domestication and Lapita dispersal of sacred male pseudohermaphroditic “tuskers” and hairless pigs of Vanuatu.

https://www.researchgate.net/publication/6707820_Recent_Southeast_Asian_domestication_and_Lapita_dispersal_of_sacred_male_pseudohermaphroditic_tuskers_and_hairless_pigs_of_Vanuatu