PHẦN IV: KHẢO CỨU VỀ HOA VĂN, KỸ THUẬT DỆT VÀ MAY TRANG PHỤC

I. Hoạ tiết trang trí trên trang phục và khăn:

1. Các loại hoa văn trang trí: 

– Chúng ta có thể sử dụng những hoạ tiết của các nền văn hoá từ Phùng Nguyên, Đông Sơn để đem lên trang phục thời Hùng Vương, các dạng hoa văn này gắn bó rất mật thiết với các hoạt động của người Việt, thể hiện trên đồ đồng, đồ gốm và cả trong đời sống thường ngày. Các dân tộc cũng sử dụng rất phổ biến những motif hoa văn như thế này trong trang phục của mình.

Các hoa văn mà chúng tôi dẫn dưới đây được tổng hợp trong khảo cứu về kỹ thuật dệt ikat, những hoa văn này có liên hệ trực tiếp với may mặc và kỹ thuật dệt, do đó chúng ta hoàn toàn có thể đem tất cả những hoa văn này lên trang phục, với sự biến tấu phù hợp.

Lưu bản nháp tự động
Hoạ tiết hình học Đông Sơn. [Nguồn]

Các dạng hoa văn trên đồ gốm và đồ đồng Đông Sơn và tiền Đông Sơn. [Sách Hoa Văn Việt Nam – Nguyễn Du Chi]

– Con người và mặt trời: mặt trời có ý nghĩa tâm linh hết sức quan trọng đối với người Việt, biểu hiện rõ ràng nhất là những tia mặt trời được biểu diễn ngay tâm trống đồng, hình tượng này hoàn toàn có thể đem vào biểu diễn nơi trang phục, như một hình ảnh chính tâm, bên cạnh những hoạ tiết hình học lặp lại ở phía xung quanh. Số cánh của mặt trời có thể dao động theo số chẵn từ 8-18 cánh, không quan trọng số lượng.

Lưu bản nháp tự động
Các ngôi sao với số cánh thể hiện trên mặt trống đồng. 
Lưu bản nháp tự động
Một số dạng mặt trời và ngôi sao trên đồ gốm và trống đồng.
Lưu bản nháp tự động
Mặt trời được thể hiện trên trang phục người Paiwan.

– Rồng và Phượng, hai biểu tượng quan trọng của người Việt, được khắc họa trên những miếng ngọc của văn hóa Thạch Gia Hà cũng có thể được đưa lên trang phục. Dạng hoa văn này có thể được sử dụng riêng dành cho tầng lớp hoàng tộc và quý tộc cao cấp, bởi đây là các biểu trưng rất quan trọng, mang ý nghĩa lớn, và có tính quyền lực.

Bên cạnh loài hình ngọc Phượng Hoàng ở trên, chúng ta cũng có thể sử dụng hậu duệ của ngọc Phượng Hoàng thời Thạch Gia Hà là loại hình chim Lạc, hay chim Tiên, các văn hóa thời kỳ đồ đồng có sự biến tấu thân hình chim Phượng Hoàng theo hướng thân dài, chân dài, mỏ dài, sự thay đổi được tìm thấy trên cả văn hóa tộc Việt và văn hóa Hoa Hạ. Loài chim Lạc, hay chim Tiên là hậu duệ của loài chim được khắc họa trên ngọc như trên, nó xuất hiện rất phổ biến trên trống đồng. Chúng ta có thể sử dụng chúng để đem lên trang phục, nhưng vì tính quan trọng, nên chỉ có thể sử dụng cho các trang phục của quý tộc.

Lưu bản nháp tự độngChim Lạc hay chim Tiên được khắc họa trên trống đồng Đông Sơn. [Nguồn: Nguyễn Văn Huyên, Những trống đồng Đông Sơn phát hiện ở Việt Nam]

– Tới thời kỳ đồ đồng, thì Rồng cũng biến đổi về hình dáng, với nhiều kiểu khắc họa khác nhau, bắt đầu có chân và móng, rồng trong thời kỳ đồ đồng có vị thế kém quan trọng hơn so với chim Lạc, khi chúng xuất hiện khá hiếm hoi trên các mặt trống đồng. Chúng ta cũng có thể sử dụng những hình tượng này để đem lên trang phục, tuy nhiên cần cải biến cho thanh thoát và phù hợp với trang phục hơn.

Lưu bản nháp tự động
Rồng có chân trên trống đồng Đông Sơn.

– Các loại chim từng tồn tại trong đời sống tinh thần và tâm linh của người Việt cũng có thể được khắc họa trên trang phục. Có thể tham khảo những hoạ tiết chim được khắc hoạ trên trống đồng, nhưng cần phải “dày công” hơn một chút: “thổi hồn” vào những chú chim đó, cho thật và sinh động hơn, bởi hoạ tiết trên trống đồng đã được cô đọng và tối giản, tuy chúng vẫn có tính nghệ thuật nhưng nếu đem áp dụng trực tiếp vào trang phục chúng tôi cho rằng sẽ không thực sự phù hợp lắm.

– Những chú hươu cũng là một gợi ý rất thú vị để đem lên trang phục, bởi những chú hươu được gắn với hình ảnh của Mẹ Âu Cơ, cùng với các loài chim.

Ảnh hươu trên trống đồng Đông Sơn;
Hình ảnh hươu sao, biểu trưng cho Mẹ Ngu Cơ của người Mường. [Nguyễn Xuân Quang]

–  Các loài cá, các loài vật đa dạng khác nhau được khắc họa trên đồ đồng, đồ gốm từ thời Phùng Nguyên tới Đông Sơn cũng là gợi ý thú vị có thể đem khắc họa lên trang phục.

– Chúng ta cũng hoàn toàn có thể đưa hình ảnh những con thuyền trên trống đồng lên trang phục, nhưng cần cải biến để nó phù hợp hơn cho việc may mặc, phù hợp hơn với trang phục nói chung, bởi thuyền là đặc trưng rất riêng của người Việt Nam Á, đặc tính của họ là đi thuyền, đánh trận bằng thuyền rất tài giỏi, đây có thể kể ra như một đặc trưng riêng biệt của người Việt Nam nhóm Nam Á.

– Hoạ tiết chữ S cùng với vòng tròn đồng tâm là các họa tiết quan trọng đối với người Việt, có nguồn gốc từ ranh giới đường thái cực cũng như đĩa bích Đông Sơn, chúng ta có thể sử dụng các kiểu biến tấu của hoa văn đồng tâm để đưa lên trang phục.

Lưu bản nháp tự động
Dạng hoa văn vòng tròn đồng tâm đơn, kép và cách điệu trên trống đồng.

Hoa văn chữ S các biến thể đóng vai trò rất quan trọng trong trang phục của người Đồng. [Nguồn: dẫn]

– Xoáy âm dương cùng hình tượng ngôi sao tám cánh, gốc của hình ảnh tia mặt trời trên trống đồng thời văn hoá Đông Sơn, hoàn toàn có thể đưa lên trang phục của người Việt. Bởi vốn người Việt có gốc văn hoá là lưỡng hợp âm-dương, Tiên – Rồng.

Lưu bản nháp tự động

Lưu bản nháp tự động
Ngôi sao tám cánh trên thổ cẩm của người Dao Tiền. [Nguồn]

– Hoa văn hình sóng nước được thể hiện trên trống đồng Đông Sơn, với dạng hoa văn thực tế được hình tượng trên trang phục của người Dao Tiền, cũng là một gợi ý rất thú vị để chúng ta tạo hoạ tiết để đem chúng lên trang phục thời kỳ Hùng Vương, bởi nhóm Nam Á của người Việt có đời sống gắn liền với sông nước, bên cạnh thuyền, rồng, thì sóng nước cũng có thể thể hiện đặc điểm đó rất đặc sắc.

Lưu bản nháp tự động
Hoa văn sóng nước trên váy của người Dao Tiền. (Ảnh: VTV)

2. Cách bố trí các loại hoa văn: 

a. Đối với trang phục của nam giới: 

Trang phục áo váy quấn của nam giới có thể khá đơn giản, với các họa tiết được bố trí dọc rìa váy, và cả ở phần chân váy. Ở giữa áo có thể được biểu diễn các hình họa mặt trời, Rồng – Phượng.

Cách bố trí hoa văn dọc rìa váy và đáy váy trên trang phục trên chiếc áo váy quấn dành cho nam của người Điền Việt, ở đây là dạng hoa văn chữ S ở phần rìa váy.

b. Đối với trang phục của nữ giới:

◊ Cách bố trí cơ bản nhất: 

Lưu bản nháp tự động
Hoa văn ở đáy váy với độ cao thấp khác nhau được thể hiện trên áo hai tà của trang phục Việt xưa trong hình họa trống đồng, đây cũng là cách bố trí hoa văn cơ bản của các dân tộc. [Nguồn ảnh: Nguyễn Văn Huyên]

– Bố trí hoa văn hình học dưới đáy váy, rìa váy và đáy cổ tay: 

Dạng bố trí hoa văn này, ở phía dưới váy, là các hình hoa văn hình học lặp lại, với độ dài ngắn khác nhau tuỳ thẩm mỹ của người thiết kế. Ở các lớp áo khác nhau, có thể thiết kế các dạng hoa văn khác nhau, kích thước dài ngắn khác nhau, tương tự hình như dưới đây. Với hoa văn tại đáy cánh tay có thể đơn giản và tinh tế hơn.

 

Lưu bản nháp tự động
Trang trí trang phục trên đáy váy và rìa váy của người Paiwan. [Nguồn]

 

Lưu bản nháp tự động
Người phụ nữ Dao Tiền với trang phục có hoa văn bám dọc viền váy, dưới đáy váy và sát đáy cổ tay.

 

Dạng hoa văn được bố trí theo cách hai đường thẳng song song dọc váy, còn bên trong được bố trí hoa văn hình học lặp lại, đối với cả đáy váy và ống tay.

Với dạng bố trí hoa văn này, chúng ta có thể sử dụng những hoa văn hình học Đông Sơn ở phía trên, cùng những đường thẳng, đường tròn, cũng như tự mình sáng tạo thêm một chút dựa trên kết cấu cơ bản đó (cần phải tham khảo trang phục của các dân tộc khác). Chúng tôi nghĩ rằng những hoa văn trên trống đồng Đông Sơn dưới đây là rất phù hợp để có thể bố trí theo cách như thế này.

Lưu bản nháp tự động

Trên tượng đồng Điền Việt cũng thể hiện khá rõ ràng cách bố trí hoa văn dọc rìa áo và ở chân váy. Dạng bố trí này là cơ bản và sử dụng cho cả nam và nữ giới.

Lưu bản nháp tự động
Hoa văn xoắn thừng được thể hiện trên chân váy tượng đồng Điền Việt.

– Các hoa văn quan trọng như mặt trời, rồng – phượng, ngôi sao 8 cánh có thể được thể hiện trong trung tâm của trang phục.

Lưu bản nháp tự động
Trang phục của người Paiwan, có loài rắn, mặt trời được trang trí ở trung tâm trang phục nữ giới.

Hoạ tiết trang trí dọc theo vạt khuy áo. Các dân tộc ngày nay hầu như đều đã chuyển sang dạng hữu nhậm, cài áo bên phải, còn truyền thống của người Việt là cài áo bên trái, theo hướng ngược lại, các hoa văn được trang trí dọc theo vạt áo gần đoạn khuy. Dạng trang trí này cũng sử dụng cho cả loại khuy áo ở giữa.

Lưu bản nháp tự động
Cách người Paiwan trang trí dọc theo vạt khuy áo. Họ đã thiết kế theo hướng khuy áo bên phải, còn người Việt xưa thực hành theo hướng ngược lại, cài khuy bên trái.

◊ Cách bố trí hoa văn xếp lớp: 

Ngoài dạng bố trí hoa văn đơn giản, dễ may mặc như trên, chúng tôi nhận thấy còn có thể có dạng bố trí hoa văn có độ phức tạp cao hơn, với hoa văn được xếp lớp dọc thân váy. Trên bức tượng cán dao găm có thể hiện khá rõ đặc điểm này, với áo được bố trí các hoa văn xếp lớp, chân váy cũng vậy, cũng được bố trí thành các lớp hoa văn.

Lưu bản nháp tự động

Dạng thiết kế hoa văn này cũng được thể hiện khá rõ trên tượng gỗ Điền Việt.

Lưu bản nháp tự động

Cách bố trí, xếp lớp hoa văn này khá giống với áo váy của người Lê:

Lưu bản nháp tự động
Hoa văn được xếp lớp phức tạp trên trang phục của người Lê (Đảo Hải Nam)

Trên một bức tượng gỗ Điền Việt khác cũng thể hiện dạng áo váy quấn với hoa văn và màu sắc thống nhất từ trên áo tới váy, chứ không chia thành hai màu sắc như các dân tộc Mường, Thái, dạng màu sắc và hoa văn này tương đồng với người Lê. Hoa văn được thể hiện đặc sắc và dày hơn ở phần chân váy, trên áo thể hiện một hệ thống hoa văn đơn giản, tinh tế hơn.

Lưu bản nháp tự động

Ở đoạn giữa chân váy có thể thiết kế thêm các họa tiết mặt trời, Rồng Phượng như chúng tôi đã tìm lại ở phía trên.

Cách bố trí này có thể không phổ biến, do tính phức tạp trong may mặc của dạng trang phục này sẽ không phù hợp cho trang phục của đa số dân cư, đặc biệt là người dân Việt ở vùng đồng bằng, dân số đông cũng như cần thay đổi trang phục nhiều. Do đó dạng trang phục có hoa văn bố trí phức tạp như thế này có thể sử dụng cho quý tộc nữ.

3. Các loại hoa văn trong thực tế may mặc: 

Chúng tôi sẽ thử tìm lại các loại hoa văn trong thực tế may mặc để thuận tiện hơn cho việc phục dựng của các họa sĩ. Từ những minh họa cơ bản này, chúng ta sẽ thấy được trong thực tế, hoa văn trên trống đồng, đồ gốm đều có thể được khắc họa trên trang phục. Cơ bản những họa tiết chúng tôi đưa ra ở trên có thể đem trực tiếp lên trang phục, đối với những hoa văn chim, người… thì cần phải dựa vào cách khắc họa trên thổ cẩm mà chúng tôi đã tìm lại ở phía dưới để khắc họa.

Các lớp chính có hoa văn xếp liền nhau có thể cách nhau bằng những dải trống, không có hoa văn, hoặc dải chấm, dải tròn… Cần bố trí các dải hoa văn cho hài hòa và thích hợp.

Các dạng hoa văn được hình tượng hóa từ các vật thực tế của các dân tộc MườngTháiHmong chúng ta cũng có thể tham khảo và sử dụng vào trang phục của mình.

– Hoa văn mặt trời cùng dải hoa văn tam giác:

Lưu bản nháp tự động

– Ngôi sao 8 cánh cùng với phối hợp các dải hoa văn trong cùng một khối trên thổ cẩm của người Tây Nguyên. Cách bố trí hoa văn này chúng ta có thể học được, đưa trực tiếp lên trang phục của người Việt do những họa tiết là cơ bản tương đồng với họa tiết của người Việt:

Lưu bản nháp tự động

– Hoa văn hình người trên thổ cẩm Tây Nguyên:

Lưu bản nháp tự động

– Hoa văn hình các loài vật trên thổ cẩm Tây Nguyên:

Lưu bản nháp tự động

– Hoa văn hình chim và người trên thổ cẩm người Tày:

Lưu bản nháp tự động

Chim thể hiện trên thổ cẩm của người Hmong:

Lưu bản nháp tự động

– Hoa văn giải tam giác xếp lớp:

Lưu bản nháp tự động

– Dải hoa văn tứ giác tiếp nối và xoắn thừng:

Lưu bản nháp tự động

– Hoa văn tứ giác và các dạng hoa văn tương đồng trên thổ cẩm của người Tây Nguyên:

Lưu bản nháp tự động

– Hoa văn dải vuông trên thổ cẩm Tây Nguyên:

Lưu bản nháp tự động

– Hoa văn chữ S xoắn tròn cùng với dải hoa văn tam giác và hoa văn hoa hòe trên trang phục Hmong:

Lưu bản nháp tự động

II. Khảo cứu về các kỹ thuật dệt, nhuộm và may trang phục:

Dệt vải đóng một vai trò rất quan trọng trong đời sống của người Việt xưa, nó là một nghề riêng biệt, yêu cầu một lượng lớn nhân công, nguồn lương thực dồi dào do phát triển nông nghiệp cho phép cư dân Việt thời kỳ đó có đủ và dư nhân công để có thể dệt vải, cũng như cho các ngành thủ công và công nghiệp khác như đúc đồng, làm gốm… Nghề dệt vải thường được dành riêng cho nữ giới, bởi tính cầu kỳ, phức tạp, yêu cầu sự kiên nhẫn và khéo léo của người dệt vải. Các công đoạn của nghề dệt khá lâu và phức tạp, nên có thể các trang phục của người Việt xưa được dệt và nhuộm đơn giản để dành cho đa số dân cư, những hoa văn yêu cầu các công đoạn phức tạp hơn chỉ dành cho bậc quý tộc.

1. Trồng cây, nuôi tằm và khai thác sợi: 

Bước đầu của kỹ thuật dệt may bắt đầu từ chỗ trồng cây, nuôi tằm và khai thác sợi.

– Đối với sợi lanh và các loài sợi có nguồn gốc thực vật, thì người dân trồng, khai thác, phơi, sau đó tước cây lanh thành các sợi đều nhau.

– Đối với sợi tơ tằm, thì người dân trồng cây dâu tằm, nuôi tằm, để tằm thả tơ, kết kén, khoảng 1 tháng sau khi nuôi tằm, người dân thu hoạch kén, luộc kén, kéo sợi tơ từ kén tằm, thành sợi tơ tằm.

Đây là khởi đầu cho quá trình dệt vải, quá trình trồng cây, nuôi tằm, khai thác sợi yêu cầu rất nhiều thời gian, tuy nhiên nó cũng chỉ là một phần của quá trình dệt vải yêu cầu nhiều kỹ thuật cũng như sự công phu, tỉ mẩn trong từng công đoạn.

2. Xe sợi: 

Bước tiếp theo của quá trình dệt vải là xe sợi, trong thời Phùng Nguyên, thì rất phổ biến kỹ thuật xe sợi bằng dọi đất nung. Sợi được khai thác từ thực vật và tơ tằm được xe thành sợi với kỹ thuật như hình minh họa phía dưới.

Minh họa kỹ thuật xe sợi bằng dọi đất nung của người châu Âu và bản địa châu Mỹ.

Kỹ thuật xe sợi tới thời Đông Sơn có thể phát triển hơn, thành guồng xe sợi và quay tơ (xa), tương tự như người Mường dưới đây, để có thể xe sợi thành sợi vải, chuẩn bị cho giai đoạn dệt vải.

Lưu bản nháp tự động
Guồng xe sợi của người Mường. [Nguồn]

Sợi sau đó được kéo để đưa vào khung cửi.

Bên cạnh đó một số ít sợi sẽ được xe vào con thoi, để chuẩn bị cho công đoạn dệt bằng khung cửi.

Lưu bản nháp tự động
Sợi được xe vào con thoi để chuẩn bị dệt vải.

3. Các kiểu khung dệt: 

Khung dệt có hai kiểu cách khác nhau: khung rời và khung cửi, gắn liền với các giai đoạn lịch sử, khung rời được sử dụng từ thời đá mới, tới thời đồ đồng khoảng hơn 2300 năm trước, thì bắt đầu xuất hiện khung cửi cùng con thoi. Kiểu dệt bằng khung rời được sử dụng phổ biến trong thời đá mới, và vẫn được tiếp tục sử dụng trong thời đồ đồng và đồ sắt.

a. Dệt bằng khung rời: 

Đối với hình ảnh dệt bằng khung rời, thì nó được được thể hiện rất rõ trên tượng đồng Điền Việt, với hình ảnh nữ giới ngồi bệt để dệt vải trên khung rời, người Tây Nguyên cũng có kỹ thuật tương tự như vậy, đây là kỹ thuật sơ khai và đơn giản nhất, được sử dụng có thể phổ biến trong giai đoạn khoảng 4000 năm trước đây.

Cách thức dệt vải thủ công của người Điền Việt và người Tây Nguyên. 

Lưu bản nháp tự động
Những mảnh khung dệt bằng kim loại được tìm thấy ở Vân Nam, là cấu trúc của bộ khung rời. [Nguồn]

Chi tiết hơn về chiếc khung rời của người Tây Nguyên: “Người phụ nữ Jrai và Bahnar không dệt trên khung cửi cố định. Công cụ dệt của họ chỉ là những bộ phận rời đơn giản mà đa số tham gia vào việc giăng sợi thành một thảm dọc trước mặt người dệt, để người này ngồi một chỗ mà đan chỉ ngang qua thảm dọc kia. Một khi sợi đã được đan thành thảm dọc, với sự tham gia của các bộ phận rời ở trên thì tổng thể ấy được thấy như một khung dệt rõ nét nhất. Khi dệt bắt buộc họ phải ngồi trên nền đất hoặc nền nhà, hai chân duỗi thẳng đạp lên một thanh gỗ nằm ngang để căng mặt sợi trên khung dệt, tất cả các đầu khung dệt được cột vào chỗ chắc chắn như cột nhà, hoặc gốc cây, khi dệt người phụ nữ dùng chân và lưng của mình để căng dàn sợi.” [Nguồn]

Về cách thức dệt bằng khung rời, bạn đọc có thể xem ở đây.

b. Dệt bằng khung cửi: 

Tài liệu khảo cổ cho thấy tới thời kỳ Đông Sơn, người Việt đã chuyển sang dệt bằng phương thức con thoi với khung cửi:

“Trong ngôi mộ cổ Việt Khê ở Thủy Nguyên – Hải Phòng khai quật năm 1958, và khu ngôi mộ ở xã Châu Can, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Sơn Bình (Hà Tây cũ) khai quật năm 1974 đã thu thập được nhiều loại vải khác nhau. Khu mộ ở Châu Can đã tìm được những mảnh vải của trang phục, nhiều nhất là ngôi mộ số 3 và số 6. Nhận xét bước đầu: “Những mảnh vải sợi không được se lại mà để nguyên sợ tự nhiên, sợi dọc thưa hơn sợi ngang và cách đều khoảng 2mm, sợi ngang bé hơn đượt dệt dày xít nhau đều đặn”. Có những mảnh vải có đường mép dọc và ngang, điều này chứng tỏ sợi vải được dệt vòng đi vòng lại. Theo ý kiến của kĩ sư phòng kĩ thuật dệt thuộc nhà máy dệt kim Đông Xuân thì đây là loại vải sợi đay hay gai, sợi dọc to và thưa hơn sợi ngang nhưng rất đều.

Chiều ngang và chiều đọc vải đều có đường biên, khổ vải hẹp, có thể vải được dệt bằng phương thức con thoi với khung cửi. Khi nói về thời đại kim khí, F. Ăng-ghen nhận xét: “Thành tựu thứ nhất là khung dệt vải, thành tựu thứ hai là việc nấu quặng và chế tác đồ kim loại”, vậy từ những mảnh vải, lụa và kĩ thuật dệt ở khu mộ Châu Can đã chứng tỏ trình độ văn minh phát triển ở thời Hùng Vương.” [7]

Khung cửi là một bước cải tiến lớn hơn nhiều so với kỹ thuật dệt bằng khung rời, các dân tộc gần với người Việt hơn như Mường, Thái, Tày, Hmong đều đã chuyển sang dệt bằng khung cửi lớn và cố định, bằng các loại gỗ có độ bền cao. Loại khung cửi này đi cùng với con thoi được xe lại bằng công cụ như chúng tôi đã đề cập tới ở trên.

Lưu bản nháp tự động
Khung dệt của người Mường.

4. Dệt nhuộm và may thêu trang phục: 

Theo tài liệu khảo cổ, thì người Việt thời kỳ Hùng Vương dệt vải sử dụng phương pháp nhuộm sợi rồi mới dệt, chứ chưa nhuộm trực tiếp cả tấm vải sau dệt.

“Những màu sắc này được tạo ra bằng cách nhuộm sợi (chứ chưa phải nhuộm cả tấm vải). Các sợi màu khác nhau được đưa vào khung dệt để tạo hình trang trí trên tấm vải theo nguyên tắc trang trí của nghệ thuật đan lát mây tre.” [Nguồn]

Do đó các kỹ thuật chính của thời kỳ Đông Sơn bao gồm kỹ thuật dệt sợi nhuộm tương tự như người Mường, Thái, và kỹ thuật nhuộm ikat như người Dai và các dân tộc Đông Nam Á.

a. Kỹ thuật dệt nhuộm của người Mường, người Thái: 

Với người Mường, người Thái, họ se sợi, sau đó nhuộm trực tiếp những bó sợi vải, hoa văn được tạo thành trong quá trình dệt vải.

Lưu bản nháp tự động
Người Mường dệt vải.

Họ sử dụng những loại sợi màu nhuộm sẵn, để dệt thành các loại hoa văn trực tiếp trong quá trình dệt.

Để hình dung rõ hơn về quá trình dệt của hai dân tộc Mường, Thái, bạn đọc có thể xem qua các video sau: người Mường, người Thái.

b. Kỹ thuật ikat, hay nhuộm bao sợi: 

Ở người Nam Đảo và người Dai cũng tồn tại một dạng dệt sợi dọc, tạo hoa văn ngay trên vải được dàn thành hàng ngang. Kỹ thuật này được các nhà nghiên cứu chứng minh có thể xuất phát từ khoảng hơn 4000 năm trước, khi người Nam Đảo và người Dai, cũng như người Việt đang còn ở vùng Động Đình, Dương Tử.

Kỹ thuật này bắt đầu từ việc xe sợi, sau đó dàn thành dàn sợi đều nhau, tương tự như hình phía dưới.

Lưu bản nháp tự động

Hoa văn sẽ được tạo trực tiếp trên vải:

Lưu bản nháp tự động

Cuối cùng là quá trình dệt vải thành tấm, với cả hai kiểu khung rời và khung cửi cố định:

Vải khi đó sẽ được hình thành các hoa văn đã được tạo ở phần bao sợi và nhuộm.

Các kỹ thuật dệt nhuộm của các dân tộc là các gợi ý quan trọng để chúng ta có thể tìm hiểu về kỹ thuật dệt nhuộm của dân tộc Việt xưa kia.

5. Tìm hiểu về kỹ thuật nhuộm vải và màu nhuộm: 

Về kỹ thuật nhuộm vải, thì các tài liệu khảo cổ cho thấy người Việt thời kỳ Đông Sơn nhuộm sợi, sau đó dệt chứ chưa phải dệt cả tấm, bằng các phương pháp mà chúng tôi đã đề cập tới ở trên. Những sợi vải sau khi được se sẽ được đem đi nhuộm màu.

Lưu bản nháp tự động
Các sợi vải được nhuộm bằng kỹ thuật của người Thái.

Về màu nhuộm, thì các màu cơ bản tạo nên các bộ trang phục thời Hùng Vương:

– Các tài liệu khảo cổ: màu ngà tự nhiên, màu xanh chàm, màu nâu gụ, màu vàng nghệ.

– Các tài liệu dân tộc học: trắng, đen, đỏ, hồng, vàng, nâu, vàng, cam, tím, xanh.

Các loại màu được sử dụng từ các loại cây tự nhiên, được pha với các tỉ lệ khác nhau để có được màu nhuộm như ý. Như vậy thì màu nhuộm sẽ rất đa dạng, có thể từ tông màu đậm tới nhạt, tùy vào người nhuộm quyết định, có thể thực hiện được qua nhiều lần nhuộm. Chúng tôi sẽ trích dẫn các tài liệu về cách dệt và các loại cây được sử dụng để nhuộm màu để bạn đọc hình dung rõ hơn.

– Của người Việt: “Bốn màu cơ bản hiện có bằng chứng trên vải sợi thời dựng nước là: màu ngà tự nhiên không nhuộm, màu chàm nhuộm từ lá cây indigo, màu nâu gụ từ củ nâu và màu vàng nghệ.” [Nguồn]

– Của người Mường: “Sợi dệt thổ cẩm được nhuộm từ các chất liệu có nguồn gốc thiên nhiên: màu đỏ nhuộm từ nước cây bang (tô mộc), màu vàng chế từ hạt quả chung khù, màu xanh lấy từ lá cây mớc… Người Mường sử dụng từ 3 màu hoặc 5 màu cho một tấm thổ cẩm gồm: xanh, đỏ, vàng, trắng, đen.” [Nguồn]

– Của người Cơ Tu: “Người Cơ Tu cho đến nay vẫn còn giữ nhiều bí quyết trong nhuộm màu thổ cẩm. Màu hồng chính là màu được tạo ra từ củ nâu luôn sẵn có trong những cánh rừng. Đồng bào thường chọn những củ lớn nặng đến vài ký. Khi sử dụng, chúng được thái thành lát, bỏ vào nồi nước đang sôi. Với chất liệu này, nếu chỉ nhuộm một lần sẽ có được màu hồng, màu nâu, màu tím. Các màu khác cũng có thể được tạo ra bằng cách kết hợp các chất liệu tạo màu đỏ và đen.” [Nguồn]

– Của người Thái: “Sau khi rửa sạch, các loại lá, rễ cây được cắt nhỏ cho vào nồi đun trong khoảng 10 phút, vừa đủ thời gian để các loại lá, rễ cây ra màu. Tùy vào từng mẫu hoa văn, bà con có từng cách thức pha chế, với tỷ lệ khác nhau để cho ra các màu sắc như đỏ tím, xanh rêu, màu vàng cam, xanh nõn chuối, xanh lá cây,… Tất cả các màu nhuộm đều bằng nguồn nguyên liệu tự nhiên có trong rừng như màu vàng da cam được chiết ra từ rễ xẹt, lá nhãn vôi ra màu xanh nõn chuối, màu nâu từ lá cà phê, màu đỏ từ cánh kiến…. Còn các màu khác phải pha trộn nhiều loại màu với nhau. Đây là bí quyết pha màu của mỗi “nghệ nhân” để có màu tự nhiên như ý.” [Nguồn]

Từ những màu sắc đa dạng và cơ bản này, các họa sĩ có thể sử dụng, phối hợp để phục dựng trang phục thời kỳ Hùng Vương, tạo nên những bộ trang phục tinh tế và hài hòa nhất.


PHỤ LỤC
Sơ khảo về tục xăm mình

Bên cạnh trang phục, thì tục xăm mình là một đặc trưng rất riêng biệt của người Việt mà chúng ta cần để ý phục dựng lại. Tục xăm mình của người Việt có sức ảnh hưởng hết sức rộng rãi khắp vùng Đông Á và Đông Nam Á, phong cách xăm cũng có những nét chung gần nhau. Chúng tôi sẽ dựa vào hai bức tượng được phát hiện tại Chiết Giang để thử so sánh với các dân tộc còn giữ tục xăm mình, tìm lại cách xăm mình cơ bản nhất của người Việt xưa.

Ý nghĩa của tục xăm mình: 

Xăm mình có một ý nghĩa tâm linh đặc biệt với người Việt, cùng với việc xăm mình hình rồng và hóa trang thành chim, nằm trong bối cảnh văn hóa lưỡng hợp Tiên – Rồng, cốt lõi của văn hóa Việt cổ xưa. Tục xăm mình được tiến hành  khi thanh niên tới tuổi trưởng thành, đó là một nghi thức cao quý, chứ không như ngày nay chúng ta nhìn nhận.

Cách thức xăm mình: 

Cách thức xăm mình được thể hiện khá rõ ràng trên các bức tượng người xăm mình phát hiện tại Chiết Giang, đất xưa của người Lạc Việt.

– Xăm mình hoa văn hình học, dạng khối vuông dọc cánh tay, tới gần 1/4 ngực.

– Ở giữa bụng xăm hình đầu rồng, với xoáy tròn có ý nghĩa khí âm dương hội tụ. Đây mới chính là xăm hình rồng chứ không phải dạng rồng ngày nay chúng ta vẫn thấy.

Các dân tộc tuy đã biến thể và thay đổi khá nhiều, nhưng cũng có cách bố trí hoa văn gần tương đồng như thế. Ở đây chúng tôi sẽ dẫn ra cách xăm mình ở người Kalinga và Paiwan để tham khảo, còn khi phục dựng, chúng ta cần dựa vào những bức tượng Chiết Giang, đây là cơ sở chính và quan trọng để dựng lại cách chính xác nhất cách xăm mình cổ xưa của người Việt.

Kiểu xăm mình dọc cánh tay tới 1/4 ngực này ở các dân tộc Kalinga và Paiwan.

Cách xăm mình của người Kalinga, Paiwan và các dân tộc Nam Đảo chủ yếu là những họa tiết hình học, dải hoa văn bố trí song song với nhau, tương tự như hoa văn trên trống đồng của người Việt. Dạng hoa văn được bố trí theo hình chữ nhật, cả ở hoa văn dọc tay và hoa văn trên ngực, kiểu bố trí này giống với người Paiwan hơn là người Phillipines.

Như vậy chúng ta có thể dựa vào cách xăm mình trên các bức tượng Chiết Giang và phần nào đó là các dân tộc Nam Đảo để phục dựng lại tục xăm mình cổ xưa của người Việt.

Còn về dụng cụ và phương thức xăm mình thì sao?

Phương thức xăm mình chúng ta có thể tham khảo cách xăm mình của người Paiwan như dưới đây, các dân tộc vùng Đông Nam Á cũng có cách xăm mình tương tự, với những chiếc que có gắn kim để gõ vào da thịt, tạo hình xăm.

Lưu bản nháp tự động


PHỤ LỤC: CÁC VẤN ĐỀ CẦN LÀM RÕ

Θ Trang phục nhà Sở và văn hóa Điền Việt

Việc chúng tôi tham khảo các bức tượng và hoa văn trống đồng Điền Việt có vướng phải một vấn đề, là Điền Việt đã bị xâm chiếm và thống trị bởi nhà Sở, sau đó Sở Trang Kiểu làm vua của vương quốc Điền, nhưng qua khảo cứu của chúng tôi, thì bối cảnh văn hóa Điền Việt thể hiện sự Việt hóa của tướng Sở Trang Kiểu và hậu duệ hơn là sự Hoa hóa đối với văn hóa Điền Việt. Hai biểu hiện quan trọng nhất: mộ táng và trống đồng, đều không thể hiện đặc điểm văn hóa Hoa Hạ như triều Nam Việt cùng thời, mộ táng thì không theo kiểu lăng mộ của phương Bắc, trống đồng, vật biểu quyền lực và tâm linh cũng tiếp tục được đúc và sử dụng, các di vật cũng ít đặc trưng của phương Bắc, chứng tỏ cho điều đó.

Dạng trang phục của nhà Sở chúng tôi nhận thấy cũng hoàn toàn khác biệt với trang phục của Điền Việt. Người Điền Việt cơ bản vẫn giữ nguyên được văn hóa, phong tục chung của tộc Việt, cả ở quý tộc và thường dân, cũng như có sự tương đồng gần như hoàn toàn với trang phục thời kỳ Đông Sơn của người Lạc Việt, do đó cơ sở tham khảo trang phục trên các bức tượng Điền Việt để phục dựng lại trang phục thời Hùng Vương của chúng tôi là vững vàng và hoàn toàn có cơ sở.

Trang phục của nhà Sở dựa trên các bức tượng, tranh và tài liệu khảo cổ. [Nguồn]


Θ Khảo về trang phục quần

Quần vốn đã xuất hiện từ khá lâu, được tạo ra ít nhất cách ngày nay hơn 3300 năm bởi người du mục Trung Á, với nhu cầu sử dụng để cưỡi ngựa cũng như giữ ấm phần thân dưới. Dạng quần này từ vùng Trung Á, đã lan truyền sang văn hóa Hoa Hạ từ sớm, dấu tích sớm nhất là từ thời Tây Chu, các triều đại sau đó kế thừa và tiếp tục sử dụng.

Quần thời Tây Chu và quần thời Tây Hán. [Nguồn]

Văn hóa Điền Việt cũng gần với vùng Trung Á, nên đã tiếp nhận dạng trang phục quần từ khá sớm. Hai hướng lan truyền: một là nhóm Hoa Hạ ở phía Bắc có sự tiếp xúc và giao lưu khá mạnh với văn hóa tộc Việt, hai là Điền Việt ở phía Tây, anh em ruột thịt của văn hóa Đông Sơn, và ngay giáp với Đông Sơn, cư dân hai nhóm thường xuyên giao lưu với nhau, nên sự lan tỏa của quần tới vùng miền Bắc Việt Nam cũng là một điều tự nhiên.

Mặc dù người Việt trên các đồ đồng không có điều kiện để thể hiện trang phục dạng quần: dao găm đồng đa phần là ước lệ, cô đọng, đồ đồng đa phần sử dụng hoa văn kỷ hà, ít thể hiện rõ trang phục, còn trống đồng thì đa phần được thể hiện hình ảnh áo hai tà sử dụng trong lễ tế. Thì dựa trên cơ sở đã đề cập ở trên, chúng tôi cho rằng có thể thời kỳ Đông Sơn đã có trang phục dạng quần, tuy nhiên có thể sử dụng trong một phạm vi hạn chế, ví dụ như để sử dụng trong chiến trận, hoặc hoạt động nghệ thuật như trên tượng Điền Việt, nó chưa đi sâu và gắn bó mật thiết với đời sống của người Việt, người Việt đa phần vẫn chỉ sử dụng dạng áo váy như chúng tôi đã tìm lại ở trên.

Tranh minh họa: Hộ Quốc Vệ Thần. 


Chú thích và tài liệu tham khảo: 

[1] Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại 2 lần tuyết rơi ở Cấm thành Thăng Long vào mùa xuân.
– Nhâm Ngọ, Long Phù năm thứ 2 (1102), (Tống Sùng Ninh năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, ngày Lập xuân; tuyết lành xuống.
– Giáp Ngọ, Hội Tường Đại Khánh năm thứ 5 (1114), (Tống Chính Hòa năm thứ 4). Mùa xuân, tuyết điềm lành xuống.

[1a] Ralf Kittler, Manfred Kayser, and Mark Stoneking, Molecular evolution of Pediculus humanus and the origin of clothing. Current Biology, 2003. 13(16): p. 1414-1417.

[1b] David L Reed, Vincent S Smith, Shaless L Hammond, Alan R Rogers, and Dale H %J Plos Biol Clayton, Genetic analysis of lice supports direct contact between modern and archaic humans. 2004. 2(11): p. e340.

[2] Liu D, Duong NT, Ton ND, Van Phong N, Pakendorf B, Van Hai N, Stoneking M (2020). Extensive ethnolinguistic diversity in Vietnam reflects multiple sources of genetic diversity. Molecular Biology and Evolution.
https://doi.org/10.1093/molbev/msaa099

[3] Earliest Evidence of Pattern Looms Discovered in China
https://www.seeker.com/culture/archaeology/earliest-evidence-of-pattern-looms-discovered-in-china

[4] Gerard C. C. Tsang, Textile Exhibition: Introduction
http://www.asianart.com/textiles/intro.html

[5] Vũ Kim Biên, Thời Vua Hùng không có “văn hóa đóng khố“
https://kienthuc.net.vn/tham-cung/thoi-vua-hung-khong-co-van-hoa-dong-kho-326883.html

[5a] Trương Chính và Ðặng Ðức Siêu, Sổ tay văn hóa Việt Nam, nxb. Văn Hóa, Hà Nội, 1978, tr. 113-116.

[6] Nguyễn Ngọc Thơ (2011), Văn hóa Bách Việt vùng Lĩnh Nam trong mối quan hệ với văn hóa truyền thống ở Việt Nam.

[7] Lịch sử trang phục các triều đại phong kiến Việt Nam. Quang Vũ Trịnh. Nhà xuất bản Văn Hóa – Thông Tin, 2007.

[8] Lịch sử vải sợi Việt Nam và vấn đề lễ phục – Nguyễn Việt
http://ape.gov.vn/lich-su-vai-soi-viet-nam-va-van-de-le-phuc-ds248.th#

[9] Lịch sử ra đời của các chất liệu vải thuần Việt
https://www.elle.vn/the-gioi-thoi-trang/lich-su-ra-doi-cua-cac-chat-lieu-vai-thuan-viet

[10] Hirofumi Matsumura, Hsiao-chun Hung, Charles Higham, et al. (2019). Craniometrics Reveal “Two Layers” of Prehistoric Human Dispersal in Eastern Eurasia. Scientific reports;9(1):1451.

[11] Chuan‐Chao WANG Shi YAN Zhen‐Dong QIN Yan LU Qi‐Liang DING Lan‐Hai WEI Shi‐Lin LI Ya‐Jun YANG Li JIN Hui LI, et al. (2013). Late Neolithic expansion of ancient Chinese revealed by Y chromosome haplogroup O3a1c‐002611.
https://onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/j.1759-6831.2012.00244.x

[12] Yang, M.A., X. Fan, B. Sun, C. Chen, J. Lang, Y.-C. Ko, C.-h. Tsang, H. Chiu, T. Wang, and Q. Bao, Ancient DNA indicates human population shifts and admixture in northern and southern China. Science, 2020.
https://science.sciencemag.org/content/early/2020/05/14/science.aba0909

[13] McColl H, Racimo F, Vinner L, Demeter F, Gakuhari T, Moreno-Mayar JV, Van Driem G, Wilken UG, Seguin-Orlando A, De la Fuente Castro C, Wasef S (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science. 361(6397):88-92.
https://science.sciencemag.org/content/361/6397/88

[14] Matsumura H, Hung HC, Higham C, Zhang C, Yamagata M, Nguyen LC, Li Z, Fan XC, Simanjuntak T, Oktaviana AA, He JN. Craniometrics reveal “two layers” of prehistoric human dispersal in eastern Eurasia (2019). Scientific reports. 9(1):1-2.
https://www.researchgate.net/publication/330875335_Craniometrics_Reveal_Two_Layers_of_Prehistoric_Human_Dispersal_in_Eastern_Eurasia

[15] Zi-Yang Xia, Shi Yan, Chuan-Chao Wang, Hong-Xiang Zheng, et al. (2019) Inland-coastal bifurcation of southern East Asians revealed by Hmong-Mien genomic history

[16] Tạ Đức, 2013, Nguồn gốc người Việt – người Mường.

[17] Heather A. Peters, 2001, Ethnicity Along China’s Southwestern Frontier.
https://www.researchgate.net/publication/233703687_Ethnicity_Along_China’s_Southwestern_Frontier

[18] Bing Su và cộng sự, 2000,  Polynesian origins: Insights from the Y chromosome.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC26928/

[19] Per Hage và Jeff Marck, 2015, Matrilineality and the Melanesian Origin of Polynesian Y Chromosomes.
https://www.journals.uchicago.edu/doi/10.1086/379272

[20] J. Koji Lum và cộng sự, 2006, Recent Southeast Asian domestication and Lapita dispersal of sacred male pseudohermaphroditic “tuskers” and hairless pigs of Vanuatu.

https://www.researchgate.net/publication/6707820_Recent_Southeast_Asian_domestication_and_Lapita_dispersal_of_sacred_male_pseudohermaphroditic_tuskers_and_hairless_pigs_of_Vanuatu