Non trăm năm về trước, làn sóng người Việt từ Cần Thơ, Vĩnh Long đổ xuống Rạch Giá, Cà Mau để khai khẩn đất hoang. Họ đã gặp những trở ngại thiên nhiên nào? Tài trí, sự dũng cảm của họ ra sao? Lòng chúng ta không khỏi phập phồng âu lo, khi ngày nay đọc lại “Truyện đời xưa” của cụ Trương Vĩnh Ký. Cụ có nhắc lại câu chuyện cọp ở vùng Gò Quao. Cọp ta đi dạo xuống bãi sông để tìm mồi, rủi bị kẹt đuôi trong dừa nước. Rõ ràng thời ấy cọp quá lộng hành, dám bỏ rừng sâu, bén mảng đến các xóm nhà sát mé sông, nơi mà chúng bị cô lập, thất thế nhứt.

Ông cha ta đã đánh lũ cọp ấy thế nào?

Có người đáp: Nhờ các thầy võ giỏi, chuyên môn đánh cọp, xuất thân ở các trường võ Quảng Ngãi, Bình Định. Gặp lúc nước nhà loạn lạc, các thầy chạy vào vùng Cà Mau mà ẩn lánh. Võ nghệ của các thầy quá đỗi cao cường. Gặp cọp là rượt bắt, nắm cổ đè xuống, nện vào lưng cọp những quả đấm thôi sơn chẳng khác nào chúng ta ngày nay đánh một con mèo hoặc một con chó con.

Người khác bảo rằng họ đã từng gặp mấy ông thầy bùa Xiêm, chuyên môn dụ dỗ cọp. Các thầy Xiêm nằm ngửa dưới gốc cây, giữa rừng mà thổi kèn, nói đúng hơn là thổi một miếng lá tre. Tức thời cọp mẹ, cọp con chạy lại, quì xuống hầu hạ, canh gác cho thầy ngủ. Sau khi thức dậy, thầy Xiêm vỗ về từng con cọp, nhổ vài sợi râu hoặc vài sợi lông để nuôi sâu. Lông cọp, râu cọp đem về cắm trong một mụt măng tre đang mọc. Vài hôm sau thì ô hô! Mỗi sợi râu là một con sâu. Tục truyền rằng loại sâu ấy lớn bằng cườm tay, mặt đỏ hói, mình mẩy vằn vện, có đuôi dài ngoe nguẩy. Nhiều người nuôi nó trong một cái hũ kín để giữ nhà. Khi có khách đến, con sâu cọp nọ nhảy dựng trong hũ nghe rổn rổn rồi la hét! Ngoài ra, phẩn của loại sâu này rất lợi hại vì nó là vị thuốc độc, giết người trong nháy mắt v.v…

Sự thật ra sao?

Cọp U Minh, cọp Gò Quao ngày nay bị tiêu diệt hoặc bị xua về bên kia biên giới Cao Miên, phải chăng là nhờ các thầy võ Quảng Ngãi, Bình Định hoặc các thầy Xiêm có bùa phép?

Lưu bản nháp tự động
(Ảnh: Delcampe.net)

Trả lời câu hỏi ấy, cách hay nhứt là đến tìm các ông kỳ lão hiện còn sống ở vùng Gò Quao, Trà Ban (Rạch Giá). Mấy ông nầy nếu không trực tiếp đánh cọp thì ít ra cũng đã thấy và nghe rõ ràng hơn chúng ta. Vậy xin mời bạn đọc thân mến đến phỏng vấn và nghe trả lời. Đây là cuộc phỏng vấn ông Tư Bá:

– Thưa ông, ông xuống đây lập nghiệp từ hồi nào?

– Điều đó không nhớ chắc chắn ngày, tháng. Nhưng mà mấy cháu nên nhớ: Hồi Tây đánh nước mình, miệt Rạch Giá, Cà Mau còn hoang vu. Ngoài biển có ghe đánh lưới của người Hải Nam. Còn trong đất liền có mấy nhóm người Triều Châu, Phước Kiến qua đây từ đời ông Mạc Cửu. Họ ở gần chợ Rạch Giá, chợ Bạc Liêu bây giờ. Kỳ dư, có vài sốc người Miên ở giữa đồng.

Thưa thớt lắm. Sông Cái Lớn, Gò Quao này nhiều khi chèo ghe suốt ngày mà không gặp một nhà nào. Nghe nói hồi Gia Long tẩu quốc, nhiều người cất nhà ở Tân Bằng, Cán Gáo, Rau Dừa, Cái Nước. Hồi tôi xuống Gò Quao nầy, ở miệt dưới đã có vườn tược, có cau lão rồi. Nhưng đó là chuyện xa xôi, cách đây một khoảng rừng trên trăm cây số. Nghe nói chớ tôi chưa từng đi tới.

– Lúc đó miệt Trà Ban này phải chăng là hoàn toàn không có ai ở?

– Sự thật là vậy. Vài nhà người Miên ở tận giữa đồng, nhưng họ không muốn làm ăn chung đụng với người mình. Kỳ dư, bờ sông Cái Lớn này toàn là rừng. Trên bờ có cọp, dưới sông có sấu. Mình chèo ghe ban ngày, chừng vài trăm thước là thấy sấu nổi trước mũi ghe. Trời chạng vạng, nghe cọp rống, rung rinh mặt nước. Có lẽ lúc rống, mấy ổng úp mặt xuống nên có tiếng dội.

– Hồi mới tới cất nhà, chắc cọp khuấy rối mình dữ lắm?

– Không có! Không có! Mình ngu dại gì vô rừng già mà cất nhà ở. Cứ lựa mấy vàm rạch nhỏ, chèo ghe vô tuốt trong ngọn cùng mà cất chòi. Làm như vậy có hai điều lợi. Một là trong mấy ngọn rạch, không có rừng già. Rừng chỉ ăn dài theo mé sông cái, bề sâu vô chừng hai ngàn thước. Phía trong toàn là sậy, đế, cây mốp, rừng chồi. Mình có thể phá lớp sậy, đế ấy để làm ruộng trước, có lúa gạo mà ăn liền. Điều lợi thứ hai là ở xa cọp. Lúc mới xuống làm ăn, mình cần có sự yên ổn. Hơi đâu mà lo chuyện đánh cọp, trong lúc mình không rành võ nghệ.

– Ở hẻo lánh như vậy, chắc sợ cọp dữ lắm. Cọp ưa tìm người mà ăn thịt…

– Vài người lo xa, đốn cây rào chung quanh chuồng heo. Sợ nhứt là khi mình ra ruộng, cọp lén vào nhà bắt con nít. Lần đó, cọp tới sân nhà tôi, chạy vòng quanh tìm cách vô nhà. Đứa con tôi ở một mình. Nghe tiếng động đậy, nó chạy ra sát hàng rào. Cọp ta không phương kế nào vô trong được nên day lại, thò đuôi vô kẽ hàng rào. Trưa về nhà, nghe con tôi nói lại: “Ba ơi! Hồi ba đi ruộng, có con chó vện lại đây, thò đuôi vô, con nắm đuôi mà nó mạnh lắm, kéo ra được, chạy vuột”. Chừng đó, lối xóm ai cũng hoảng sợ, xây thêm hàng rào chung quanh nhà. Đêm cũng như ngày, hễ nghe động tịnh là nghĩ tới cọp. Nhưng dân mình gốc ở Hai Huyện, Cần Thơ, Long Xuyên xuống. Ở đó, đất khai khẩn lâu đời rồi nên phần đông nghe tới cọp là sợ chớ ít ai thấy tường tận ông cọp lần nào! Có một cô nọ ngồi rửa chén sau nhà, thấy cái tàu mo cau rụng xuống bèn vụt chạy vô nhà, đóng cửa lại mà la lớn:

– Má ơi! cọp! cọp!

Hỏi: Cọp ra sao?

Cô ta nói: “Nó cao lắm, lưng nó vàng, bụng nó trắng”. Chừng xem kỹ lại tàu cau rõ ràng là tàu cau…

Có bà lão khác ngồi câu cá, sát gốc cây xộp. Cọp trong rừng men ra chụp một cái. Bà nọ té nhào bên gốc cây. Nhờ vậy mà cọp chụp hụt. Sau đó cọp chạy cong đuôi vô rừng. Bà ngồi dậy, mở mo trầu ra ăn rồi lững thững về nhà nói lại: “Bữa nay xui xẻo quá. Câu cá không được con nào, nhè gặp con heo rừng ra nhát!”

Cả nhà hồ nghi, trở ra gốc xộp mà xem kỹ, rõ ràng là dấu móng cọp. Kể từ đó thiên hạ bàn tán về cọp, bắt đầu lo ngại. Có người bàn: Nên thành lập một đội binh để vô rừng đánh cọp. Công việc đầu tiên là đốn cây tầm vông, vạt nhọn để sẵn. Khi gặp cọp thì đánh trống lên, cả xóm xách tầm vông tới nghinh chiến. Mới nghe qua, dường như có lý.

Nhưng năm đó, ở rạch Cái Cam (Phong Điền, Cần Thơ) có người xuống cho hay: Ở xứ tôi, có bày bố như vậy nhưng thất bại. Gặp cọp, đánh trống lên, ai nấy xách tầm vông chạy tới. Cọp im lặng, thu hình một chỗ. Thinh không, ổng thét lên. Tức thì ai nấy chạy tán loạn. Có người thiếu điều đổ ruột vì chạy càn, đụng nhằm ngọn tầm vông vạt nhọn của bạn mình. Về sau, có người gài bẫy được một ông cọp. Họ đút mũi tầm vông vô miệng cọp để đâm. Dè đâu, cọp nhai nát như… mình ăn mía!

– Vậy làm thế nào để đánh cọp không còn sót một con như ngày nay?

– Chuyện đó phải làm lần hồi. Bố trí một đạo binh đánh cọp không xong, dân xóm nầy mới bày đặt cất miếu thờ cọp. Đó là ngụ ý: “Chúng tôi là người làm ăn, không dám đá động tới ông, xin ông cứ ở trong rừng cho chúng tôi được yên ổn”. Cất miếu xong, chạng vạng có người tới đốt nhang. Mấy hôm đầu, ông cọp đi vòng quanh miếu, đứng nhìn rồi về. Bữa sau, dân làng đem cúng một cái đầu heo rừng. Cọp mừng lắm. Từ đó xóm riềng được yên.

Nhưng tạo hóa vần xoay, dân miệt trên xuống đây khai khẩn ngày thêm đông.

Đất giữa đồng đã khai thác hết. Bây giờ chỉ còn đất rừng sát mé sông, nơi cọp ở. Đó là hồi nguy nan nhứt cho dân mình và cũng cho cọp. Nhiều người làm gan, cất nhà sát mé rừng. Ban đầu đôi ba nhà, sau năm mười nhà. Họ thấy ở gần mé sông tuy là nguy hiểm nhưng có nhiều huê lợi khác: ăn ong, làm rẫy. Một công rẫy trúng mùa được tới một trăm hai chục giạ khoai lang. Lúc nầy, nhiều người chết vì đi một mình vô rừng, bị cọp chụp bất thình lình. Họ sắm mác thông, thứ có cán dài, để ứng phó. Nhưng ở chỗ rừng dày, con người khó bề xoay trở để tấn thối!

Thời thế tạo anh hùng. Bận đó, ông thầy Râu (thầy thuốc Nam, vì có râu dài nên gọi là thầy Râu) có đứa con gái bị cọp vồ. Tức mình, ông cầm mác rượt theo tận giữa rừng, chém cọp rớt một cẳng. Tư Ngạn bị cọp cõng mất một con heo nái. Chú rượt theo, cầm cự với cọp suốt buổi trưa. Nhờ lối xóm tiếp cứu nên mới thoát nạn. Từ đó về sau, chú ưa uống rượu, cặp mắt luôn luôn đỏ ngầu.

Kinh nghiệm là không nên đánh cọp nơi chật chội, tư bề có cây cối. Cọp sợ người, bằng cớ là ở giữa đồng trống, mình cầm mác, thét lớn là cọp chạy mất. Vì vậy, khi dân mình phá động rừng, cọp tản mác, kiếm nơi khác mà hùng cứ. Rạch Cái Bần nầy lần hồi còn sót lại được ông Mun.

– Tại sao ông Mun dám ở lại?

– Vì ổng thuộc về loại cọp già, đã từng chống chọi nhiều phen với loài người. Cọp nhỏ thì đi. Cọp già ở lại. Thứ già là thứ dữ. Mỗi rạch chỉ còn sót lại một hai ông. Dân trong xóm đều quen mặt nên đặt tên. Có hai ông. Ông Vện với ông Mun. Vện là cọp đực, Mun là cọp cái.

Trời đất dành riêng cho đôi cọp nầy số phận riêng. Trước hết, xin nói về ông Mun.

Thường ngày, ông Mun tới lui vàm Xẻo Gừa – một xẻo nhỏ, nước cạn, ít ai tới lui. Tại vàm Xẻo, có cây gừa to, “nhỏ gừa” (rễ thòng xuống) buông xuống hàng trăm cọng to bằng cổ tay, bằng cây cột nhà. Ông Mun ngủ sát gốc, chung quanh có nhỏ gừa che chở nhiều lớp. Ổng dạn lắm… Sáng đi, chạng vạng về. Tháng tư năm đó, ổng sanh được bốn con một lần, cũng đều là Mun hết thảy.

Thật là khủng khiếp, lạ thường. Xưa nay, cọp sanh một hay đôi là cùng. Đằng này sanh tới bốn con, nội một lần! Dân làng nhìn nhau lắc đầu, tưởng tượng một ngày kia bốn ông Mun nhỏ lớn lên, sung sức…

Phải đối xử bằng cách nào?

Bắt bốn ông Mun con chăng? Chuyện đó rất dễ. Ông Mun mẹ thường đi tìm mồi, để bầy con bơ vơ ở gốc gừa. Nhưng mất con, ông Mun mẹ sẽ đổ quạu, trả thù, gây nhiều chuyện bất an cho xóm.

Lo xa rồi lại nghĩ gần, ông thầy Râu, ông Hương Văn Huệ, ông Tri Khách Lừa bày ra một kế: Bắt bớt ba, chừa lại một.

Thi hành xong, ba ông mua nhang đèn về, dựng bàn trước nhà mà khấn vái:

– Xin trình cùng ông Mun được hay: thói thường xưa nay một mẹ thì một con. Đằng này, ông sanh tới bốn con. Dân làng chúng tôi lo sợ nên thừa lúc ông đi vắng, có tới xin bớt ba con, chừa lại cho ông một con. Như vậy, không mích lòng ông mà cũng không hẹp bụng chúng tôi…

Ông Mun về ổ, thấy mất con, gầm thét rồi vài hôm sau dẫn đứa con còn lại đi mất.

– Bây giờ làm sao để nuôi ba ông cọp con nọ?

– Cọp con hiền lắm, mình mẩy mềm mại, bò tới bò lui, cái lưng uốn éo như con mèo lớn. Tối ngày, mấy cậu cứ đòi sữa. Biết được chuyện ấy, mấy người đàn bà động lòng, xúm xít lại đặt mấy cậu nằm giữa bộ ván; ai nấy ngồi vòng quanh mà dòm ngó cho mãn nhãn. Các cậu đánh hơi rồi từ từ bò ngay lại người đàn bà nào có sữa để đòi bú. Bà chủ H. cho bú thử. Kết quả: vài ngày sau vú sưng lên làm độc đau sứt núm vú. Bấy giờ, thiên hạ càng lo ngại. Sau cùng, họ chở ba cậu ra chợ Rạch Giá để nạp cho quan Phó chủ tỉnh. Ông Phó tên “Quít-xy” thưởng cho hai mươi lăm đồng bạc trắng, ổng đem cọp con về bên Tây nuôi.

– Còn ông Vện?

– Ông Vện có lẽ là chồng ông Mun, cha của mấy cậu nọ. Phải chăng vì già nua, bịnh hoạn mà ông Vện không theo vợ, theo con? Buổi sáng đó, người ta thấy ông Vện nằm dài trên bờ rẫy, sát mí rừng. Ban đầu ngỡ là ông ngủ trưa. Chừng mặt trời lên cao, ngạc nhiên làm sao, ông vẫn nằm ì không nhúc nhích. Thiên hạ xúm lại gần, lấy đất chọi thử, rồi lấy cây dài mà thọc, chừng đó mới biết ổng chết. Họ thui râu ổng, rồi lấy thước đo: ổng dài một thước sáu. Người khác đòi khiêng lên cân thử, mấy ông kỳ lão cản ngăn, cho rằng làm như vậy là quá khinh thị, mạt sát kẻ đã chết…

Rạch Cái Bần không còn cọp nữa. Mấy rạch khác cũng thưa cọp. Lần hồi, ghe xuồng đi thông thương ngày đêm, từ ngọn Cái Cau đến vàm sông Cái Lớn. Câu hát thời xưa:

U Minh, Rạch Giá thị quá sơn trường,

Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua không còn nữa. Ghe xuồng, tàu bè tấp nập, sấu phải lui về vàm biển. Cũng thời câu hát xưa, thiên hạ sửa lại như vầy:

– Đường đi Rạch Giá thị quá sơn trường,

Gió rung bông sậy, dạ buồn nhớ ai…

Bông sậy chỉ trổ nơi rừng đã khai phá thành rẫy. Lòng dạ con người thơ thới hơn. Không còn sợ cọp, sợ sấu. Họ rảnh trí mà ngắm cảnh nhớ tình. Nhớ ai bây giờ? Trai nhớ gái. Vợ nhớ chồng. Người nay nhớ công ơn người xưa đã đánh cọp để tạo lập nên làng, nên xóm. Họ không phải là thầy nghề võ, thầy bùa.

Chẳng qua là họ muốn sống nên phải ráng sức cùng nhau, mỗi người ráng một ít.

Sự thiệt về chuyện đánh cọp Gò Quao là vậy.

Nó dễ mà khó, khó mà dễ. Người đánh cọp thời đó không bao nhiêu, tên tuổi của họ không cần bảng đồng bia đá. Vậy mà về sau nầy có không biết bao nhiêu người tự xưng là thầy đánh cọp thời xưa để hát thuật Sơn Đông, bán thuốc trật đả hoặc bán bùa Xiêm để dụ dỗ gái tơ. Thiệt đáng trách biết chừng nào.