Dù có nhiều điểm tương đồng với lăng Gia Long và lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị vẫn có những nét rất riêng, có thể coi là độc nhất vô nhị.

Bên trái phía sau lăng vua là Xương Thọ Lăng của Nghi Thiên Chương Hoàng hậu hay bà Từ Dụ, người vợ nổi tiếng của vua Thiệu Trị.

Giới nghiên cứu đánh giá, lăng Thiệu Trị là sự dung hòa hai mô thức kiến trúc của hai lăng vua được xây dựng trước đó là lăng Gia Long và lăng Minh Mạng.

Cụ thể, các nhà thiết kế lăng Thiệu Trị đã tách riêng khu vực tẩm điện trong lăng Minh Mạng rồi cải tiến, sửa đổi cho phù hợp với cảnh quan nơi xây lăng Thiệu Trị để tạo ra đồ án thiết kế lăng này.

Bên cạnh đó, lăng Thiệu Trị cũng giống lăng Minh Mạng ở cách thức mai táng và xây dựng toại đạo (đường hầm để đưa thi hài vua vào huyệt mộ), Bửu Thành hình tròn với hồ hình bán nguyệt bao bọc ở phía trước.

Trên phương diện phong thủy, lăng Thiệu Trị lại có nhiều nét gần gũi với lăng Gia Long, thể hiện ở việc sử dụng các ngọn núi tự nhiên và gò đất nhân tạo để làm bình phong, hậu chẩm. Ngoài ra, hai lăng còn giống nhau ở chỗ không xây La thành, khu vực lăng mộ và tẩm điện biệt lập, song song với nhau..

Dù có nhiều điểm tương đồng với lăng Gia Long và lăng Minh Mạng, lăng Thiệu Trị vẫn những nét rất riêng, có thể coi là độc nhất vô nhị. Đây là lăng duy nhất quay mặt về hướng Tây Bắc, một hướng không được dùng trong kiến trúc cung đình thời Nguyễn.

Nếu La thành của lăng Minh Mạng là tường gạch, lăng Gia Long là đồi núi bao quanh, thì La thành của lăng Thiệu Trị là những cánh đồng lúa, những vườn cây xanh rờn. Chính vòng La thành đậm chất thôn quê này tạo cho cảnh quan lăng Thiệu Trị sự thanh thoát và yên bình.

Về lịch sử hình thành của lăng Thiệu Trị, theo sử cũ, sau khi ở trên ngai vàng được 7 năm, vua Thiệu Trị lâm bệnh qua đời ngày 4/11/1847, khi mới ngoài 40 tuổi. Trong lúc hấp hối, nhà vua đã dặn người con trai sắp lên nối ngôi về việc xây lăng của mình.

Vua căn dặn rằng: “Chỗ đất làm Sơn lăng nên chọn chỗ bãi cao chân núi cận tiện, để dân binh dễ làm công việc. Còn đường ngầm đưa quan tài đến huyệt, bắt đầu từ Hiếu Lăng, nên bắt chước mà làm. Còn điện vũ liệu lượng mà xây cho kiêm ước, không nên làm nhiều đền đài, lao phí đến tài lực của binh dân”.

Vua Tự Đức lên nối ngôi đã lệnh cho các thầy địa lý tìm đất để xây lăng cho vua cha. Họ tìm được địa cuộc tốt tại chân một dãy núi thấp thuộc làng Cư Chánh, huyện Hương Thủy. Sau đó núi ấy được cải tên là núi Thuận Đạo còn lăng được gọi là Xương Lăng

Theo lời dặn của vua cha, vua Tự Đức căn dặn các đại thần phải bắt chước cách làm toại đạo giống lăng Minh Mạng, công việc xây dựng các công trình mang tính thờ phụng ở lăng như điện, đình, các, viện… thì phải theo quy chế của lăng Gia Long, và tùy theo địa thế tại chỗ để châm chước định liệu mà làm.

Dưới sự đốc thúc của vua Tự Đức, quá trình xây cất Xương Lăng diễn ra nhanh chóng và gấp rút chưa từng có.

Tính từ ngày bắt đầu xây dựng (11/2/1848) đến ngày hoàn tất, lăng Thiệu Trị đã được thi công trong vòng chưa đầy 10 tháng.

Ngày 14/6/1848, vua Tự Đức thân hành lên Xương Lăng kiểm tra lần cuối. Mười ngày sau, thi hài vua Thiệu Trị được đưa vào an táng trong lăng sau 8 tháng quàn tại điện Long An ở cung Bảo Định.

Sau nhiều thăng trầm của lịch sử, ngày nay lăng Thiệu Trị đã xuống rất cấp nặng nề. Hiện trạng này khiến lăng không được nhiều du khách ghé thăm như lăng các vị vua Minh Mạng, Tự Đức, Khải Định.

Với một dự án trùng tu lớn đã được phê duyệt, hi vọng lăng mộ vua Triệu Trị sẽ được khôi phục tầm vóc vốn có trong thời gian không xa.