Trong cuộc sống hàng ngày, khi muốn nói tới những kẻ thường dùng những chiêu bài giả mạo để lừa bịp người khác, gian lận tráo trở trong buôn bán, danh không phù hợp với thực, người Trung Hoa thường nói: “Quải dương đầu, mại cẩu nhục”, câu thành ngữ này được ông cha ta xưa kia dịch sang tiếng Việt là “Treo đầu dê bán thịt chó”, lai lịch của câu thành ngữ này có nguồn gốc như sau:

Cách lý giải thứ 1:

Đầu tiên hãy bàn đến người thời Tống (960-1279, Trung Quốc) thường ăn uống ra sao?

Chúng ta cùng tìm hiểu với căn cứ theo các sách “Đông Kinh Mộng Hoa Lục” của học giả Mạnh Nguyên Lão, “Đô Thành Kỷ Thăng” của tác giả Mạnh Đắc Ông và sách “Mộng Lương Lục” của Ngô Tự Mục và “Võ Lâm Cựu Sự” của Chu Mật.

Vào thời nhà Tống, quan đại thần Tô Đông Pha (tên thật là Tô Thức) không chỉ nổi tiếng về một sự nghiệp chính trị, sự nghiệp văn thơ mà còn nổi tiếng về cảm quan trong lĩnh vực ẩm thực.

Thậm chí ông từng cho rằng vẫn muốn ăn thử… cá nóc ngay cả khi có nguy cơ phải chết một lần. Không chỉ có sở thích ăn những món lạ, ngon, ông còn sáng tạo ra một món ăn gọi là “Đông Pha Trử Tử” (thịt chân giò kiểu Tô Đông Pha).

Khi ấy, có một loại canh phổ biến gọi là canh “kết tình”, khá phổ biến và được ăn thường xuyên. Thậm chí có câu “Tam nhật nhập trú hạ, rửa tay nấu kết tình” – ý nói cứ ba ngày xuống bếp thì cần phải nấu loại canh này một lần.

Học sĩ Tô Đông Pha còn có thói quen thích ăn thủ lợn. Ông rất thích ăn thủ lợn nấu nhừ, sau đó dưới lên thủ lợn một loại sốt làm từ nước mơ để tăng độ chua ngọt.

Thành ngữ Treo đầu dê, bán thịt chó được dùng hàng ngàn năm từ đâu mà có? - Ảnh 1.

Minh họa khung cảnh buôn bán thời nhà Tống (Ảnh: Qulishi.com)

Trên thực tế, nhà Tống đã có những hoạt động thương mại tương đối sôi nổi cùng các kỹ thuật thủ công nghiệp khá phát triển so với các quốc gia xung quanh. Đội ngũ những người làm các công việc liên quan đến thủ công nghiệp và thương nghiệp rất lớn, có khi chiếm tới 1/10 dân số trong kinh thành. Các gia đình khá giả cũng tập trung nhiều ở kinh đô.

Ngoài kinh đô thì các thành thị nhỏ cũng rất phát triển. Theo thống kê trong sử liệu, thì các thị trấn sầm uất thời Bắc Tống có số lượng lên tới 1.900 thị trấn, còn thời Nam Tống là 1.300 thị trấn. Đó là chưa kể đến các làng xã nhỏ dưới thị trấn cũng khá phồn thịnh.

Tầng lớp thương nhân buôn bán ở mức vừa và nhỏ chính là tầng lớp có nhiều người giàu có nhất trong xã hội, thậm chí ở nông thông cũng có tầng lớp này xuất hiện. Hình ảnh trong “Thanh Minh Thượng Họa Đồ” cho thấy có nhiều các vườn trà, tiệp thuốc, tửu quán (quán rượu), tiệm hoa, cửa hàng lụa, cửa hàng công cụ… cho thấy thời đó buôn bán phát triển rất rầm rộ.

Đặc biệt, các ngành nghề liên quan đến đánh bắt, kỹ thuật nuôi trồng thủy hải sản cũng rất đa dạng và được cho là có tiềm năng.

Tuy nhiên điều kỳ lạ là trong các tài liệu lại không thấy ghi lại nhiều các món liên quan nổi tiếng đến sản vật đến từ biển như hải sâm, vây cá mập, yến xào…

Thứ nhất, kỹ thuật nấu nướng chưa thực sự được phổ biến rộng rãi, mà chỉ tập trung vào những người có tay nghề. Trước thời nhà Tống, các món ăn cũng được chế biến tương đối đơn giản và ít hải sản, thậm chí một món bình thường như món cua chiên phải đến thời Bắc Tống mới có.

Còn về dụng cụ nấu món hải sản thì cũng tương đối phức tạp, các loại chảo cũng phân ra làm nhiều loại như chảo dày, chảo mỏng, nồi lớn nhỏ khác nhau… Các món hải sản thời đó khó chế biến và thường được coi là các món độc, lạ.

Vì vậy, đối tượng thường xuyên được dùng các món này cũng là những người giàu có và quyền lực như quan lại hoặc quý tộc chứ người dân bình thường thì có rất ít cơ hội thưởng thức.

Thứ hai, ăn uống thời nhà Tống cũng cần có sự tính tế, sự tính toán sao cho ăn uống vừa phải đảm bảo sức khỏe. Trong sách “Đông Kinh Mộng Hoa Lục” có cả một phần tên là “Tế Chấp Thân Vương Thôn Thất Bách Nhập Nội Thượng Thọ” nói chi tiết về chế độ ăn uống điều độ, cân bằng để đạt sức khỏe tốt dành cho tầng lớp cao quý trong xã hội.

Ví dụ như khi ăn đồ ăn thì nên hạn chế chia làm nhiều loại bát đĩa, thậm chí cốc tách cũng cần được tính toán. Khi bắt đầu tiệc thì có thể uống hai ly rượu nhưng phải ăn rau trước. Đến ly rượu thứ ba thì nên ăn thêm đồ gì, ăn thêm bao nhiêu rau, cũng được tính toán.

Tất cả đều có quy tắc. Còn đối với tầng lớp bình dân thì mọi thứ đơn giản hơn nhiều, có thể ăn bánh, hoa quả khi uống rượu, sang hơn thì chuẩn bị chút thịt, canh là đã có một bữa tiệc rượu phong phú.

Thành ngữ Treo đầu dê, bán thịt chó được dùng hàng ngàn năm từ đâu mà có? - Ảnh 5.

Bức học “Hàn Hi Tài Dạ Yến Đồ” miêu tả một bữa tiệc đêm (Ảnh: Art.ifeng.com)

Thứ ba, người thời Tống cũng có phương pháp ăn khá độc đáo, như chia phần ngay trên bàn ăn. Các thức ăn chính là rượu, gạo, bánh bột mỳ. Thói quen ăn uống kiểu chia phần này được cho lầ giúp đơn giản hóa bữa ăn.

Nhìn vào bức họa “Hàn Hi Tài Dạ Yến Đồ” thì có thể thấy dường như không giống mọi người đang cùng ngồi một bàn ăn. Rượu thậm chí còn được coi là “món chính” thời kỳ này. Nhiều các món ăn khác được dọn lên cũng là để phục vụ cho cách thưởng thức rượu mà thôi.

Thành ngữ Treo đầu dê, bán thịt chó được dùng hàng ngàn năm từ đâu mà có? - Ảnh 6.

Hoàng đế Tống Huy Tông, người đã hạ lệnh cấm giết và ăn thịt chó (Ảnh: Wikipedia)

Thứ tư, dân gian thời Tống khá e dè trong chuyện chế biến món ăn cao cấp. Các loại đồ ăn được coi là sang như hải sâm, tổ yến, vây cá mập được ghi nhận chỉ xuất hiện trong dân chúng vào thời nhà Minh, cụ thể là thời Vĩnh Lạc đế.

Thời Minh, dân gian có sự phóng thoáng và táo bạo hơn trong việc chế biến và tìm các món ăn mới. Kỹ thuật nấu ăn thời nhà Minh cũng phát triển vượt bậc. Nhà sử học nổi tiếng Hoàng Nhân Vũ trong sách “Vạn Lịch Thập Ngũ Niên” cũng đã khẳng định điều này. Điều này được cho là do sự thoải mái hơn, bình đẳng hơn trong quản lý xã hội thời nhà Minh so với thời Tống.

Theo các nghiên cứu chính thức, thời Tống người dân tuy thờ ơ với hải sản như với các loại thịt thì sử dụng thực sự rất nhiều. Trong cuốn “Mộng Hương Lục” ghi: “Ở Hàng Châu, cửa hàng bán thịt rất nhiều, phố Bá Bắc là nơi bán nhiều thịt nhất, là chợ thịt hàng ngày, các căn nhà trong phố giết thịt không biết bao nhiêu mà kể”.

Ngoài thịt lợn, thịt bò, thịt dê… thì người dân còn có cả thịt chó. Thịt chó được tiêu thụ rất nhiều. Nhưng đến thời vua thứ tám của nhà Tống là Tống Huy Tông thì có sự việc như sau:

Vào khoảng giữa các năm niên hiệu Sùng Ninh (1102-1106), có một viên hoạn quan là Phạm Trí Hư kiến nghị với hoàng đế rằng: Chó là loài vật tượng trưng cho sự trung thành, không phải để lấy thịt, mà nhân dân thì ăn thịt chó nhiều quá, mong hoàng đế hãy ngăn việc này.

Tống Huy Tông đồng ý, ra lệnh cấm giết thịt và ăn thịt chó trong cả nước. Từ ấy, việt giết thịt chó là phạm pháp nhưng nhu cầu, thói quen của người dân thì vẫn còn.

Vì thế, tại các cửa hàng thịt, người ta vẫn lén lún bán thịt chó, nhưng để tránh sự kiểm tra gắt gao của quan lại, khâm sai hoặc người của triều đình thì họ treo đầu dê hoặc cừu lên trước gian hàng của mình nhằm ngụy trang.

Thành ngữ “Treo đầu dê, bán thịt chó” xuất hiện từ ấy. Thành ngữ này về sau dùng để chỉ sự làm ăn gian dối, lừa lọc của các con buôn.

Cách lý giải thứ 2:

Có xuất xứ từ câu “Quải dương đầu, mại cẩu nhục”

Ngày xưa, ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc) có một người tên là Trương Thành vốn rất thích ăn thịt chó. Có một lần, trong lúc đi buôn ngựa tới một thị trấn nhỏ, từ xa anh ta đã nhìn thấy một tấm biển hiệu rất to, trên tấm biển đó viết bốn chữ lớn “Chuyên bán thịt chó”. Quả thực có một con chó lông vàng trông béo tốt đang bị xích trước cửa quán . Anh ta mừng rỡ đi vào bên trong.

Chủ quán thấy Trương Thành quấn một túi căng phồng quanh thắt lưng, chắc mẩm rằng đây nhất định là một vị khách sộp lắm tiền, bèn ân cần mời anh ta ngồi. Trương Thành gọi liền 5 cân thịt chó, một bình rượu trắng. Khi rượu thịt đã bày lên, anh ta ăn rất nhanh, trong nháy mắt đã ăn hết 5 cân thịt chó, uống hết cả bình rượu. Lúc này, anh ta cũng đã chếnh choáng hơi men, bèn chỉ con chó lông vàng trước cửa cất giọng lè nhè hỏi chủ quán: “Anh có bán con chó lông vàng trước cửa không?”.

Chủ quán biết đây là cơ hội kiếm tiền, liền nói: “Đó là một con chó béo tốt, bình thường không bán. Nhưng nếu anh trả giá cao thì tôi sẽ để lại cho anh”. Trương Thành liền lấy 10 lạng bạc ra trả cho chủ quán.

Chủ quán thấy tiền mắt sáng lên, không chần chừ vội cầm lấy 10 lạng bạc đồng thời giao ngay con chó cho Trương Thành. Con chó dường như biết được Trương Thành xem trọng nó nên cứ vây quanh Trương Thành nào ngửi nào kêu luôn miệng, còn vẫy đuôi mừng rỡ. Trương Thành vô cùng thích con chó. Anh ta bèn rời khỏi tiệm, con chó cũng đi theo không rời một bước. Chủ quán nhìn thấy Trương Thành bước đi lảo đảo, bèn nảy ra ý xấu, thế là anh ta bèn lặng lẽ theo sau Trương Thành.

Đi một quãng tới một bãi cỏ, bất chợt có một cơn gió lạnh thổi tới làm Trương Thành cảm thấy hoa mắt chóng mặt rồi lảo đảo ngã xuống. Chủ quán từ xa nhìn thấy, đợi một lát không thấy động tĩnh gì liền chạy đến, thấy Trương Thành nằm bất động, ông ta vẫn chưa an tâm. Ông ta lật người Trương Thành lại, con chó thấy vậy tưởng anh ta muốn cõng chủ của mình nên cứ đi tới đi lui bên Trương Thành. Ông chủ quán chắc mẩm Trương Thành đã bất tỉnh nhân sự, bèn định gỡ lấy cái hầu bao trên người Trương Thành. Không ngờ con chó thấy vậy liền sủa to mấy tiếng rồi chạy tới vừa che chắn cho Trương Thành, vừa gầm gừ rất dữ tợn và trừng cặp mắt sắc lạnh nhìn gã chủ tiệm thịt chó đầy đe dọa. Lão chủ tiệm thịt chó thấy vậy sợ quá lùi ra xa, không dám tiến lại nữa. Lúc này, gió bắc thổi càng lúc càng mạnh.

Lão chủ tiệm thấy gió to nổi lên, bèn nghĩ ra một mưu kế ác độc và tàn nhẫn khác. Ông ta chạy ra xa rồi lấy lửa châm vào bãi cỏ khô trên cánh đồng nhằm giết chết Trương Thành để chiếm bằng được số bạc mà Trương Thành đang mang trong người. Lửa gặp gió to cháy lan rất nhanh về phía Trương Thành đang nằm. Con chó thấy lửa sắp cháy tới nơi người chủ mới của nó đang nằm thì tỏ ra vô cùng lo lắng, nó vừa cuống quýt sủa vừa cắn vào vạt áo Trương Thành mà lôi nhằm đánh thức cho chủ tỉnh lại, nhưng anh ta vẫn nằm bất động.

Nhìn thấy gần đó có một dòng sông nhỏ, con chó bèn lao như tên bắn về phía dòng sông rồi nhảy “ùm” xuống nước. Sau khi thân mình đã ướt sũng nước, nó lao trở lại rồi lăn lộn trên đám cỏ khô xung quanh chỗ Trương Thành đang nằm mê mệt. Nó cứ làm như thế cho tới khi bãi cỏ khô xung quanh nơi Trương Thành cũng ướt sũng nước. Mặc dù vừa lạnh vừa mệt nhưng con chó khôn ngoan vẫn chú ý cảnh giác để canh giữ cho người chủ mới. Lão chủ tiệm thấy ngọn lửa cháy tràn qua chỗ Trương Thành nằm mà Trương Thành vẫn bình an vô sự, trong khi đó con chó vừa khôn ngoan vừa trung thành lại không chịu rời xa chủ của nó nửa bước nên rất bực tức, luôn miệng chửi rủa con chó, cuối cùng cũng đành phải chán nản bỏ đi. Con chó canh chừng đến lúc thấy tên chủ tiệm thịt chó đã đã đi thật xa, lúc đó vì đã quá kiệt sức, nó mới khuỵu xuống nằm bên cạnh chủ rồi từ từ nhắm mắt lại và trút hơi thở cuối cùng.

Một lúc lâu sau đó Trương Thành mới tỉnh rượu, khi đưa mắt nhìn quanh mới biết trong lúc vì quá say rượu, mình đã nằm trên một cánh đồng cỏ khô, nhưng cả một vùng cỏ khô đã bị cháy thành than mà riêng xung quanh nơi mình nằm thì cỏ không hề bị cháy, khi chợt nhìn thấy con chó thân mình ướt sũng nằm chết bên cạnh và phát hiện ra dòng nước gần đó, Trương Thành chợt hiểu ra tất cả, thì ra con chó chính là kẻ đã liều mạng để cứu chủ. Trương Thành vốn chỉ có ý định mua con chó đó về nhà để làm thịt mời bạn bè, nhưng ai ngờ con chó lại đối với anh có tình có nghĩa tới như vậy! Trương Thành không kìm được những giọt nước mắt vì cảm động và trong lòng cũng cảm thấy vô cùng đau đớn, cuối cùng đành phải đào hố để chôn con chó. Anh ta nghĩ tới cái quán rượu kia hàng ngày vẫn tàn sát biết bao những con chó khôn ngoan để bán thịt một cách không thương tiếc! Nghĩ tới đó, Trương Thành liền quay trở lại quán rượu. Tên chủ quán thịt chó thấy Trương Thành quay trở lại thì sợ quá, tưởng anh ta hỏi tội mình.

Nhưng Trương Thành móc hầu bao ra, lấy hết số tiền định dùng để mua ngựa đưa ra trước mặt gã chủ quán, và nói: “Chỗ bạc này tôi sẽ đưa hết cho anh, chỉ cần anh thả hết những con chó đang bị nhốt để chuẩn bị làm thịt kia ra, và phải hứa rằng từ nay trở đi anh sẽ không giết chó nữa, mà cũng không được bán thịt chó nữa”. Thấy tên chủ quán có vẻ còn ngại ngần, anh ta nói: “Ông có thể quay sang bán thịt dê để mưu sinh, tôi có thể mua trước cho ông mấy con dê để ông làm thịt, sau đó ông hãy chặt lấy một cái đầu dê rồi treo lên trước cửa tiệm thay cho bảng hiệu, ông thấy thế nào?”

Chủ tiệm lúc này chỉ muốn có ngay chỗ bạc trắng kia, vì thế đương nhiên là gã đồng ý. Trương Thành đích thân đi mua dê về, chặt đầu dê xong bèn đưa cho lão chủ quán để treo lên trước cửa tiệm. Sau khi trông thấy lão chủ quán treo lên xong bèn dặn rằng: “Ông nhớ đấy, phải giữ lời hứa, từ nay trở đi không được giết chó và bán thịt chó nữa”. Chủ quán nhìn lên trời thề rằng: “Tiệm tôi luôn giữ uy tín, anh cứ yên tâm đi”. Nói xong, quả thực ông ta bắt tay vào nấu thịt dê. Lúc này Trương Thành mới giao bạc cho chủ quán và yên tâm ra đi.

Không ngờ khi chủ quán bán hết chỗ thịt dê do Trương Thành mua về thì lại vẫn bán thịt chó y như cũ. Nhưng do sợ Trương Thành quay lại phát hiện ra sự gian dối của mình, cho nên hắn không bỏ cái đầu dê xuống mà vẫn treo y như cũ, như vậy rõ ràng là chủ quán vẫn treo đầu dê bên ngoài nhưng lại lén lút bán thịt chó bên trong, để kiếm những đồng tiền bất chính đối với những lời mà mình đã hứa.

Xuất phát từ câu chuyện này mà từ đó về sau người ta thường dùng câu thành ngữ: “Treo đầu dê bán thịt chó” để chỉ những sự việc mà bên trong và bên ngoài bất nhất, lời nói và việc làm trái ngược nhau. Người Việt Nam cũng thường nói câu này để phê phán những người nói một đằng làm một nẻo, không từ một thủ đoạn nào để lừa bịp hoặc dối trá người khác, do bị lợi lộc làm cho tối mắt.

Tham khảo: QULISHI.COM